Lấp khoảng trống pháp lý đối với khủng hoảng ngân hàng tại Việt Nam
Các chuyên gia nhấn mạnh cần thiết phải có một cơ chế cảnh báo và can thiệp sớm mạnh mẽ, hiệu quả và linh hoạt hơn đối với hệ thống ngân hàng trong Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi…
Tại Hội thảo trao đổi về Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) do Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức, các chuyên gia nhấn mạnh 5 vấn đề cần được đẩy mạnh.
Thứ nhất, sự nhất quán giữa Luật các tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các luật liên quan.
Thứ hai, sự tích hợp các chuẩn mực quốc tế và thông lệ tốt ở mức độ đầy đủ nhất có thể.
Thứ ba, bổ sung các điều khoản cho phép triển khai cơ chế giám sát dựa trên rủi ro với phạm vi áp dụng cho các tập đoàn tài chính cũng như tăng cường nhiệm vụ giám sát an toàn vĩ mô.
Thứ tư, sự cần thiết phải có sự bảo vệ pháp lý đối với người giám sát.
Thứ năm, sự cần thiết phải có một cơ chế cảnh báo và can thiệp sớm mạnh mẽ, hiệu quả và linh hoạt hơn đối với hệ thống ngân hàng.
KỊCH BẢN GIẢI QUYẾT KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN CHO CÁC NGÂN HÀNG LỚN
Chia sẻ những bài học từ khủng hoàng tài chính toàn cầu liên quan đến việc quản lý, phục hồi và xử lý các ngân hàng, ông Geof Mortlock, chuyên gia giám sát cao cấp World Bank (WB) cho biết, những cuộc khủng hoảng tài chính trong vài thập kỷ qua đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng hiện tại và việc phát triển chính sách trên toàn cầu, đồng thời cũng để lại bài học quan trọng.
Khi một ngân hàng rơi vào khó khăn, việc rút tiền gửi diễn ra rất nhanh chóng, có thể gây ra sự phá sản của một hay nhiều ngân hàng, kéo theo hiệu ứng khủng hoảng của cả hệ thống tài chính.
Từ những bài học trên, ông Geof Mortlock cho rằng, các ngân hàng trong tình trạng căng thẳng tài chính cần có những kế hoạch kỹ lưỡng để khôi phục trạng thái ổn định tài chính; các cơ quan giám sát cần can thiệp sớm một cách hiệu quả để hỗ trợ các ngân hàng đang khó khăn tài chính.
Nếu môt ngân hàng không thể khôi phục tình trạng ổn định tài chính, ngân hàng đó cần được xử lý một cách kịp thời. Việc phục hồi và giải quyết này cần dựa trên các mục tiêu rõ ràng được đề ra trong luật, chủ yếu liên quan đến duy trì ổn định tài chính, bảo vệ người gửi tiền thông qua các cơ chế bảo hiểm tiền gửi, tránh hoặc giảm đến mức tối thiểu nhu cầu đối với sự hỗ trợ từ Chính phủ, duy trì kỷ luật thị trường mạnh mẽ với các ngân hàng.
Theo các chuyên gia, một khung pháp lý đối phó hiệu quả với căng thẳng hay phá sản ngân hàng đòi hỏi các yếu tố: can thiệp sớm; các kế hoạch hồi phục ngân hàng; các chính sách, quyền hạn và kế hoạch giải quyết ngân hàng; nguồn hỗ trợ giải quyết; hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp cho các ngân hàng có khả năng thanh toán.
Trong đó, việc giải quyết các ngân hàng đòi hỏi lập kế hoạch kỹ lưỡng. Cơ quan giải quyết cần chuẩn bị các kế hoạch giải quyết khủng hoảng toàn diện cho tất cả các ngân hàng lớn để giảm thiểu tác động đến sự ổn định của hệ thông, giảm chi phí cho Chính phủ, tránh gây bất ổn cho người gửi tiền và những người cho vay khác. Cùng với đó, các kế hoạch giải quyết phải được kiểm tra thường xuyên.
HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG NGÂN HÀNG
Nhiều ý kiến cho rằng hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu phục hồi và giải quyết khủng hoảng ngân hàng một cách hiệu quả.
Luật các tổ chức tín dụng còn thiếu hệ thống các mục tiêu rõ ràng về giải quyết căng thẳng tài chính ngân hàng, không định rõ thẩm quyền pháp lý đầy đủ trong vấn đề này. Bên cạnh đó, Luật Ngân hàng Nhà nước cũng chưa đầy đủ, thiếu các quy định về thẩm quyền cần thiết và các biện pháp bảo vệ trong trường hợp hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp hoặc trong việc chỉ định Ngân hàng Nhà nước là cơ quan giải quyết.
Theo các chuyên gia, việc sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng là cần thiết để Việt Nam đối phó hiệu quả với tình trạng căng thẳng và phá sản ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường chính sách và quy trình đối với việc can thiệp sớm, phục hồi và giải quyết ngân hàng, đồng thời cần củng cố chính sách, quy trình hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp.
Theo Giáo sư Andrew Godwin, cố vấn World Bank, mục tiêu của việc sửa đổi luật là nhằm định rõ quyền hạn để tăng cường hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm giải trình và tính minh bạch của các cơ quan quản lý, bao gồm cả ngân hàng trung ương, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính, bảo vệ người gửi tiền trong phạm vi cơ chế bảo hiểm tiền gửi và ưu tiên người gửi tiền, giảm thiểu các rủi ro tài chính công.
Các chuyên gia cho rằng, những yếu tố chính để các ngân hàng trung ương thực hiện hiệu quả quyền hạn của mình là sự độc lập về hoạt động, trách nhiệm giải trình, nguồn lực và sự bảo vệ về mặt pháp lý đối với bộ phận giám sát. Từ đó, Ngân hàng Nhà nước cần tận dụng tốt sự độc lập về hoạt động trong thực thi các thẩm quyền giải quyết.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, việc sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng cần đặt trong tổng thể pháp luật Việt Nam, cần rà soát mở rộng các luật có liên quan như Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Ngân hàng Nhà nước; cần quan tâm đến việc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, chú trọng các ưu tiên trong áp dụng pháp luật, thiết kế các hệ thống, cơ chế cảnh báo, xử lý sớm các biến động thị trường. Những ý kiến góp ý của các chuyên gia sẽ được tổng hợp, chắt lọc trong quá trình thực hiện dự án luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế nêu rõ, việc sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng phải bám sát quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, đổi mới hoạt động ngân hàng theo nội dung nhiệm vụ trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế, hướng tới cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng phù hợp với nguyên tắc thị trường, bảo đảm an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống; tăng cường tính minh bạch, cạnh tranh, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển mới.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật về xử lý nợ xấu, chấm dứt tình trạng sở hữu chéo; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm cung ứng dịch vụ ngân hàng cơ bản một cách thuận tiện, chi phí thấp tới người dân không có tài khoản ngân hàng, ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.