Hoàn thiện cơ chế, chính sách để logistics nội đô Hà Nội phát triển xứng tầm
Trung tâm logistics Hateco.

Chia sẻ tại toạ đàm “Dự báo xu hướng logistics nội đô thích ứng với bối cảnh mới”, TS Nguyễn Thị Bình, Trường Đại học Ngoại Thương cho rằng, để vận hành các hạ tầng này trong tổng thể lĩnh vực logistics thì Hà Nội đang thiếu.

HẠ TẦNG THIẾU, YẾU

Thậm chí, hệ thống mô phỏng giao thông động cho đô thị với sự tham gia của các doanh nghiệp vận tải chưa có.

Bên cạnh đó, dữ liệu hành trình vận tải dù đã có nhưng để khai thác được dữ liệu này, tối ưu hoá hành trình trên toàn bộ quy mô rộng lớn hơn thì chưa. Trong khi bài toán tối ưu trong vận tải là quan trọng hàng đầu của lĩnh vực logistics.

Ngoài ra những vấn đề về môi trường, tiêu thụ năng lượng là những thách thức mà các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM phải tính đến.

Ông Phạm Hoài Chung, Viện phó Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải  (Bộ Giao thông Vận tải) bổ sung, Hà Nội còn thiếu quy hoạch cũng như định hướng phát triển trung tâm logistics thu nhỏ ở sâu nội đô, tự động hoá một số quy trình chặng cuối…

Phương tiện giao hàng chặng cuối tại TP. Hà Nội chủ yếu là xe máy, khác các đô thị phát triển trên thế giới thường là xe tải hoặc xe bán tải.

Ưu điểm của xe máy là tiện lợi, tiếp cận khách hàng nhanh chóng, ngay cả với các địa chỉ tại các ngõ, hẻm đặc thù của Hà Nội mà các loại hình phương tiện khác không tiếp cận được. Nhưng nhược điểm là năng lực giao hàng thấp, phát sinh nhiều chuyến đi cá nhân.

Hơn nữa, người tiêu dùng thường xuyên sử dụng tiền mặt để thanh toán đơn hàng. Họ có xu hướng lựa chọn phương thức giao hàng và nhận tiền tại nhà hay cơ quan do còn thiếu niềm tin vào chất lượng sản phẩm từ các nhà cung cấp, người bán. Tới hơn 90% hàng hóa trong giao dịch thương mại điện tử hiện nay được thực hiện theo phương thức này.

Các thách thức với logistics chặng cuối hiện nay tại Hà Nội theo ông Chung đó là hành lang pháp lý và thủ tục hành chính. Đối với logistics chặng cuối, trước khi khách hàng nhận và thanh toán đơn hàng thì đó chưa được coi là một giao dịch thành công để có thể xuất hóa đơn đỏ.

Mặt khác, kết cấu hạ tầng logistics chưa hoàn chỉnh: còn các điểm nghẽn ùn tắc giao thông vào giờ cao điểm, ngập lụt,... gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ giao hàng và trải nghiệm của khách hàng.

Ngoài ra, hạ tầng công nghệ cũng như nền tảng công nghệ để đáp ứng được thương mại điện tử cho việc xử lý những data khổng lồ hay những thời điểm có rất nhiều đơn hàng được đặt cùng lúc vẫn là thách thức lớn. Nguồn nhân lực và năng lực giao hàng còn hạn chế…

HỌC HỎI TỪ CÁC MÔ HÌNH LOGISTICS NỘI ĐÔ NƯỚC NGOÀI

Để logistics nội đô phát triển tương xứng, theo đại diện Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải, Hà Nội cần có giải pháp tối ưu hệ thống logistics chặng cuối phù hợp với đặc điểm đô thị của TP. Hà Nội.

Đó là giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý và phát triển hoạt động logistics, phát triển kết cấu hạ tầng nhằm tối ưu hóa chuỗi cung ứng dịch vụ logistics, ứng dụng công nghệ trong tối ưu hóa logistics chặng cuối, cải thiện môi trường đầu tư và hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ…

Từ nghiên cứu các mô hình logistics nội đô của Singapore, Úc, Anh và CHLB Đức, bà Bình đề xuất Hà Nội cần xây dựng khu liên hợp hay trung tâm logistics đảm nhận gom hàng và phân phối hàng cho khu vực trung tâm.

Hàng hóa sẽ được thu gom tại đây và vận chuyển đến các địa điểm của khách hàng bằng đường đi tối ưu. Đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng logistics.

Đồng thời, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về lịch trình và lộ trình của các hãng vận tải tham gia cung cấp hàng hóa cho khu vực đô thị, bao gồm: Dữ liệu quan trọng xây dựng mô hình mô phỏng giao thông động, căn cứ để đề xuất mô hình tối ưu hóa hành trình của từng hãng vận tải.

Khuyến khích sự hợp tác giữa các doanh nghiệp vận tải tư nhân. Xây dựng cơ chế hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp vận tải triển khai vận chuyển hàng hóa thân thiện môi trường: phương tiện xanh, thúc đẩy mô hình hợp tác công tư (PPP).

Đặc biệt cần áp dụng đồng bộ và linh hoạt các công cụ và chính sách quản lý vĩ mô: Hạn định thời gian phương tiện ra-vào thành phố; quy định kích cỡ, tải trọng phương tiện...

Vũ Khuê
Nguồn: Tạp chí Kinh tế Việt Nam
Link bài viết gốc