Phát huy vai trò của doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường
Việc huy động doanh nghiệp (DN) tham gia vào công tác bảo vệ môi trường (BVMT) là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công của các chiến lược, mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu hiện nay.
Sự phát triển của DN Việt Nam và thách thức đặt ra với công tác BVMT
Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc với 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) được thông qua ngày 15/9/2015 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của DN trong việc thực hiện 17 SDGs bên cạnh vai trò của Chính phủ và các tổ chức. Để thực hiện thành công các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 21 (COP 21) và lần thứ 26 (COP 26) cũng không thể thiếu vai trò quan trọng của DN. Các chiến lược quốc gia, văn bản pháp luật của Việt Nam về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng luôn nhấn mạnh vai trò của cộng đồng DN. BVMT là một trong ba trụ cột chính (Kinh tế - Môi trường - Xã hội) của phát triển bền vững DN nói riêng và phát triển bền vững của đất nước nói chung.
Việt Nam được các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá là quốc gia có các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng nhanh và hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới với hàng loạt cam kết quốc tế về môi trường, đặc biệt trong nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới được ký kết, trong đó có các quy định, yêu cầu về môi trường đối với các sản phẩm xuất khẩu của các DN Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng nhanh cùng với cơ cấu kinh tế chưa hoàn thiện cũng đã bộc lộ những thách thức đối với công tác BVMT, vẫn còn tình trạng DN khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên quá mức; nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng tăng; xả thải, ô nhiễm môi trường làm giảm chất lượng môi trường, làm suy giảm mạnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệ sinh thái và đa dạng sinh học... Mặt khác, biến đổi khí hậu toàn cầu đã và đang tạo nên những hình thái thời tiết cực đoan và gây ra nhiều hệ luỵ, tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.
Công tác BVMT tại DN
Với sự quản lý, giám sát của các cơ quan Nhà nước, hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, công tác BVMT của cộng đồng DN Việt Nam trong thời gian vừa qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đối với nhóm DN lớn trong nước: Đây là những DN được tổ chức và vận hành bài bản, có tầm nhìn và sứ mệnh gắn với các vấn đề về môi trường và xã hội. Với tiềm lực tài chính lớn, các DN thuộc nhóm này tuân thủ tốt vấn đề tuân thủ chính sách pháp luật và có những chương trình, sáng kiến vượt lên trên mức độ tuân thủ, được triển khai trong nội bộ DN và trong cộng đồng. Đây là nhóm DN tiêu biểu, là hình mẫu trong công tác BVMT.
Với nhóm DN có vốn đầu tư nước ngoài: Việc thực hiện các vấn đề môi trường và các chương trình sáng kiến khác có liên quan thường được quy định ở công ty mẹ trên cấp độ toàn cầu, các công ty con hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam ngoài việc tuân thủ chính sách pháp luật về môi trường ở nước sở tại cũng phải triển khai nghiêm túc các chính sách, quy định toàn cầu từ công ty mẹ. Với các cam kết rằng buộc ở cấp độ toàn cầu này nên có thể nói phần lớn nhóm DN có vốn đầu tư nước ngoài có kết quả tốt trong công tác BVMT.
Về nhóm DN trong nước sản xuất hàng xuất khẩu: Hàng rào kỹ thuật về môi trường, các sản phẩm xuất khẩu thân thiện với môi trường là yêu cầu, quy định bắt buộc của các nước nhập khẩu đối với những sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam trong những năm gần đây. Để đáp ứng những yêu cầu, quy định này, các DN xuất khẩu của Việt Nam đã và đang từng bước đáp ứng thông qua việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa, đạt được những giấy chứng nhận về BVMT và thực hiện kiểm toán môi trường một cách tự nguyện. Nhóm DN này thường có công tác BVMT tốt.
Đối với nhóm DN còn lại, bao gồm các DN nhỏ và vừa, các DN siêu nhỏ: Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhóm DN này gắn liền với tuân thủ các chính sách pháp luật về BVMT với sự giám sát, quản lý bởi các cơ quan chức năng có liên quan.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những kết quả khả quan, công tác BVMT của DN còn tồn tại một số hạn chế như: Số lượng DN tăng trưởng nhanh, mức độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao dẫn tới khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ồ ạt, lãng phí và thiếu kiểm soát, ảnh hưởng tới các hệ sinh thái và đa dạng sinh học, phát sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm, chất thải, phát thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng; Còn một số DN tập trung vào các lợi ích kinh tế trước mắt, chưa thực sự quan tâm, chú trọng tới vấn đề BVMT trong khi vấn đề môi trường là một trong những trụ cột quan trọng của phát triển bền vững DN; Hoạt động BVMT còn mang tính đối phó; Việc sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu trong sản xuất kinh doanh góp phần ảnh hưởng xấu tới môi trường.
Bên cạnh đó, nhiều sự cố môi trường nghiêm trọng, do chưa tuân thủ hay cố tình chưa tuân thủ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN đã xảy ra. Điều này gây ra các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường, an ninh trật tự và xã hội, mất nhiều thời gian, nguồn lực để khắc phục hậu quả. Công việc ứng phó, chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu của DN còn nhiều hạn chế; các mô hình kinh doanh, sản phẩm thân thiện với môi trường chưa được phổ biến rộng rãi.
Các giải pháp hỗ trợ DN thực hiện tốt công tác BVMT
Do đó, hỗ trợ DN thực hiện tốt công tác BVMT cần được thực hiện một cách xuyên suốt, đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, các bên liên quan và từ cam kết của chính DN. Để làm được điều này, trong thời gian tới, cần triển khai các nội dung:
Một là, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT phù hợp với bối cảnh của Việt Nam và xu thế của thế giới, Chính phủ đóng vai trò kiến tạo cho DN trong hoạt động BVMT gắn liến với sản xuất, kinh doanh;
Hai là, nâng cao nhận thức về BVMT: Xây dựng các chương trình mục tiêu về công tác BVMT gắn kết các bên liên quan trong đó các hiệp hội, tổ chức đại diện, tập hợp DN đóng vai trò cầu nối giữa Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các bên liên quan khác nhằm truyền thông bài bản, sâu rộng tới DN. Nâng cao nhận thức cho DN về hạch toán vốn tự nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, áp dụng các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn; các DN lớn trong và ngoài nước cũng cần chung tay lan tỏa, nhân rộng những mô hình tốt trong công tác BVMT;
Ba là, nâng cao năng lực cho DN: Phối hợp giữa các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đối tác, nhà tài trợ, các DN tiên phong xây dựng các chương trình tập huấn cho DN về BVMT, những lợi ích, cơ hội kinh doanh mới xuất phát từ BVMT và lập báo cáo phát triển bền vững DN;
Bốn là, hỗ trợ tài chính, tiếp cận nguồn vốn xanh: Chính phủ tạo cơ chế thuận lợi cho DN có nhu cầu tài chính xanh trong nước và quốc tế để thay đổi công nghệ, cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường;
Năm là, công bố thông tin về môi trường của DN: Ngoài việc báo cáo công tác BVMT với cơ quan chức năng theo quy định, DN cần xây dựng báo cáo phát triển bền vững (hoặc báo cáo môi trường và xã hội, báo cáo phi tài chính) để minh bạch, thực hiện công việc giải trình về hoạt động môi trường với các bên liên quan, các nhà đầu tư và đối tác tiềm năng. Lợi ích của việc lập báo cáo phát triển bền vững đã chứng minh trong nhiều năm vừa qua ở trên bình diện quốc tế cũng như tại Việt Nam;
Sáu là, hỗ trợ, thúc đẩy DN áp dụng Bộ chỉ số DN bền vững (CSI), tham gia Chương trình đánh giá, công bố các DN bền vững tại Việt Nam do VCCI chủ trì tổ chức hàng năm. Bộ chỉ số CSI được VCCI xây dựng với tiêu chí thân thiện, dễ hiểu, dễ áp dụng, phù hợp với bối cảnh phát triển của DN Việt Nam. Đây cũng là công cụ hữu hiệu hỗ trợ DN thực hiện công việc phát triển bền vững, lập báo cáo phát triển bền vững. DN thực hiện tốt nội dung môi trường trong Bộ chỉ số CSI không những đáp ứng được công tác tuân thủ pháp luật về BVMT trong nước mà còn dễ dàng đáp ứng các yêu cầu quốc tế về môi trường có liên quan.