Triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, các cơ chế, chính sách hỗ trợ nhóm doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh sau đại dịch đã được Đảng và Nhà nước triển khai liên tục và kịp thời trong thời gian vừa qua. Các chính sách này đã có tác dụng hỗ trợ và thúc đẩy xu hướng phục hồi tính cực của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, bảo đảm nguồn cung tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải tất cả các chính sách đều có hiệu quả và tác động nhanh chóng đến doanh nghiệp.
Nhiều chính sách hỗ trợ cho DN phục hồi
Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào nhóm nhiệm vụ liên quan tới hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh tại Nghị quyết số 11/NQ-CP, PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, giải ngân các chính sách hỗ trợ thuộc Chương trình sơ bộ đạt 55,5 nghìn tỷ đồng, trong đó: các chương trình cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 10.073 tỷ đồng; Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đạt 3.045 tỷ đồng cho gần 4,54 triệu lao động; Giảm thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường đối với nhiên liệu bay, xăng đến ngày 26/8/2022 là 34.970 tỷ đồng; Chi phí cơ hội hỗ trợ thông qua gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất đến hết tháng 6/2022 là 7.400 tỷ đồng. Ngoài ra, gia hạn các loại thuế, tiền thuê đất là 52.000 tỷ đồng.
Sự phối hợp đồng bộ của các giải pháp nêu trên nhìn chung đã đem đến các kết quả khả quan. Qui mô gói hỗ trợ đã được mở rộng hơn nhiều so với năm 2020 và 2022, theo dự kiến qui mô gói hỗ trợ năm 2022 là 4,05% GDP. Bên cạnh đó, các chính sách đưa ra đã được tính toán kỹ lưỡng, phối hợp với nhau tốt, không ảnh hưởng lớn đến các cân đối chủ chốt của nền kinh tế, sự an toàn tín dụng của hệ thống ngân hàng, các chỉ số kinh tế vĩ mô được giữ ổn định, nhưng vẫn duy trì dư địa để tiếp tục xây dựng, thực hiện các giải pháp trong giai đoạn tiếp theo.
Theo Ngân hàng Thế giới, kinh tế Việt Nam được dự báo có thể tăng trưởng 7,5% trong năm 2022, tăng mạnh so với 2,6% năm 2021. Lạm phát vẫn được kiểm soát tốt: CPI tính chung 8 tháng năm 2022 tăng 2,58%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021. Thị trường ngoại tệ, tỷ giá hối hối đoái được giữ ổn định (biến động trong phạm vi cho phép với biên độ +/- 2%).
Nhìn chung, các chính sách, giải pháp đã rất chủ động, linh hoạt và kịp thời giúp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì một mặt bằng tỉ giá, lãi suất hợp lý, cơ bản ổn định so với các nước lớn và trong khu vực đang chịu nhiều biến động, qua đó giúp xu hướng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và phát triển tích cực.
DN khó thụ hưởng
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, thực tế thời gian qua cho thấy, chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng, chưa kịp thời điều chỉnh các bất cập. “Doanh nghiệp lớn dễ dàng tiếp cận các chính sách hỗ trợ qua văn bản chính thức, còn doanh nghiệp nhỏ lại tiếp cận thông tin qua kênh phi chính thức. Bên cạnh đó, đối tượng thụ hưởng khó đáp ứng yêu cầu thủ tục hành chính; thời hạn thực hiện các gói hỗ trợ ngắn, chỉ 3 - 6 tháng. Đối tượng hỗ trợ tập trung vào một số ngành nghề, trong khi nhiều ngành nghề đang thực sự khó khăn vẫn chưa được hỗ trợ kịp thời, trong đó có doanh nghiệp du lịch.”, ông Lê nói.
Ngoài ra, các văn bản hưởng dẫn chưa kịp thời. Đơn cử, đối với chính sách gia hạn tiền thuê đất, dự kiến tiền thuê đất, thuê mặt nước được gia hạn trên 3.000 tỷ đồng. Song, 8 tháng đã qua vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
PGS.TS Nguyễn Trúc Lê cho rằng, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế đã thực sự kích thích nền kinh tế phát triển, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, người dân. Dự kiến, việc triển khai thực hiện chương trình sẽ đóng góp 1,5 - 2% tăng trưởng GDP của năm 2022. Ước tính cả năm 2022 tăng trưởng đạt 7,5%. Muốn vậy, theo ông Lê, cần tổng hợp, đánh giá kỹ các gói hỗ trợ.
Theo đó, để thúc đẩy các gói hỗ trợ, các cơ quan quản lý cần tiếp tục lắng nghe cộng đồng doanh nghiệp; có hệ thống giám sát, đánh giá kịp thời, có hướng dẫn cụ thể cho các địa phương thực hiện. Bên cạnh đó, cần rà soát các tiêu chí, chỉnh sửa cho phù hợp; bổ sung tiêu chí mới khi nền kinh tế thế giới đối mặt nhiều thách thức. Việc hỗ trợ cần có mục tiêu, ưu tiên với các ngành trong lĩnh vực tạo bệ đỡ cho nền kinh tế như nghiệp logistics, công nghiệp hỗ trợ…
Về dài hạn, PGS.TS Nguyễn Trúc Lê đề xuất, nên điều chỉnh giảm chính sách giảm thuế, tăng chính sách gia hạn thuế. Các chính sách phải xây dựng trên nguyên tắc can thiệp có mục tiêu, không thực hiện các chính sách hỗ trợ hay can thiệp đại trà. Chính sách cần xác định rõ thời kỳ áp dụng để bảo đảm tính linh hoạt, nghĩa là có lộ trình cụ thể.
Ngoài ra, cần tiếp tục giảm thuế bảo vệ môi trường, xem xét giảm thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt. Bộ Tài chính và Ủy ban Tài chính - Ngân sách cần bóc tách vấn đề này.
Với chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, hiện nhiều doanh nghiệp không mặn mà vì phải đáp ứng nhiều điều kiện, thủ tục, lo ngại trách nhiệm thnh tra. Chưa kể, nhiều doanh nghiệp chưa có tài sản bảo đảm; các hợp tác xã chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh đang là rào cản để được tiếp cận gói hỗ trợ. Mặt khác, dù các ngân hàng thương mại đã được nới room tín dụng song chưa đáp ứng kỳ vọng nên Ngân hàng Nhà nước cần xem xét điều chỉnh room tín dụng.
Để tiếp tục tạo thuận lợi cho quá trình phục hồi và phát triển của doanh nghiệp những tháng cuối năm 2022 và trong năm 2023, theo ông Bùi Trung Nghĩa, Phó Chủ tịch VCCI, cần triển khai một số giải pháp lớn như: tập trung hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư kinh doanh; tiếp tục có các giải pháp giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các gói hỗ trợ của Nhà nước; có biện pháp để tháo gỡ những vướng mắc trong điều kiện tiếp cận các khoản vốn vay ưu đãi đảm bảo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp để các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi thực sự phát huy hiệu quả.
Bên cạnh đó, theo ông Nghĩa, cần có giải pháp kịp thời hỗ trợ một số ngành đang phục hồi mạnh mẽ như du lịch, dịch vụ, sản xuất hàng xuất khẩu và các khu công nghiệp, khu chế xuất; Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý tạo thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các mô hình kinh doanh dựa trên đổi mới, sáng tạo.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh chương trình cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; có chương trình hành động cụ thể và thiết thực nhằm nâng cao khả năng tận dụng ưu đãi thuế quan FTA; Nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi của bộ máy chính quyền các cấp...
Ông Nghĩa đánh giá, trong những giải pháp trên, việc tiếp tục đẩy mạnh chương trình cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp là một trong những giải pháp thiết thực, quan trọng nhất để có thể hỗ trợ hiệu quả cộng đồng doanh nghiệp song song với việc thực hiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp đến các đối tượng thụ hưởng, nhằm giảm bớt khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi, tạo niềm tin và động lực cho cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững. Đây cũng là giải pháp căn bản, lâu dài và hiệu quả nhất về chi phí và cũng chính là nhiệm vụ chính trị của các cơ quan quản lý nhà nước mà Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành và địa phương thực hiện liên tục từ năm 2014 tới nay thông qua loạt Nghị quyết 19 và 02 hàng năm của Chính phủ.
Giải pháp này cũng hoàn toàn phù hợp với chủ trương mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là một trong những thành tố cấu thành quan trọng của đột phá thể chế phát triển (một trong ba đột phá chiến lược), trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (TTHC) phục vụ người dân, doanh nghiệp vào ngày 15/9 vừa qua nhằm triển khai có hiệu quả, thực chất công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, biến cải cách hành chính thành một nguồn lực, động lực phát triển cho đất nước.
Ông Phạm Thanh Hà, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Triển khai có hiệu quả chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và người vay vốn Một trong những mục tiêu trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm nay là thực hiện triển khai có hiệu quả chương trình hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và cho người vay vốn tại ngân hàng thương mại. Theo đó, NHNN đã triển khai nhanh chóng nhiều biện pháp để hoàn thiện hành lang pháp lý, phối hợp với các Bộ trình Chính phủ ban hành Nghị định 31, Thông tư 03 hướng dẫn các ngân hàng thương mại triển khai đến các đối tượng vay vốn. NHNN cũng đã thu thập thông tin đăng ký từ các ngân hàng thương mại để cùng với các Bộ tiến hành đề xuất phân bổ ngân sách 40.000 tỷ trong 2 năm, năm nay dự kiến phân bổ 16.000 tỷ, năm 2023 dự kiến phân bổ 24.000 tỷ. Sau khi có phân bổ ngân sách, NHNN đã tiến hành triển khai, hướng dẫn các ngân hàng thương mại và đã xác định rõ hơn nhiều vấn đề cần phải giải đáp trong quá trình triển khai, chủ yếu là liên quan đến đối tượng, phương thức, cách đăng ký, cách lập dự toán, rút vốn, hỗ trợ quyết toán. Ngoài ra, các ngân hàng cũng được yêu cầu phải tập trung mọi nguồn lực cao, triển khai nhanh và hỗ trợ kịp thời đến người vay vốn. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng việc tổ chức triển khai trên thực tế vẫn còn gặp nhiều vướng mắc. Bởi vậy, cần tập trung giải quyết khó khăn về đối tượng được hỗ trợ lãi suất. Nhiều trường hợp khách hàng không hoạt động đơn ngành mà hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi ưu tiên, hỗ trợ. Đồng thời, cần tháo gỡ khó khăn về tiêu chí đánh giá như khách hàng phải có khả năng, có phương án kinh doanh, có khả năng phục hồi. Ở đây, thời điểm và quy cách, phương thức đánh giá, thẩm định của ngân hàng cho vay có sự khác biệt với việc đánh giá của các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Để giải quyết những khó khăn này, NHNN sẽ triển khai các nhóm, tổ liên ngành để khảo sát tình hình thực tế triển khai tại các địa phương, tại các ngân hàng thương mại để nắm bắt và có giải đáp thắc mắc cũng như giải quyết vấn đề trong thực tế. Bà Hà Thu Thanh, Chủ tịch HĐTV Deloitte Việt Nam Cần có một cơ chế cho các doanh nghiệp đang đi tiên phong về môi trường Sau 2 năm ứng phó với Đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp phải tạm đóng cửa hay giải thể thì phần lớn do khó khăn về tài chính, đặc biệt là khó khăn về dòng tiền để duy trì các hoạt động thường xuyên. Các doanh nghiệp bước vào giai đoạn phục hồi sau đại dịch thì lại gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, thiếu hụt cả số lượng và thiếu hụt kỹ năng của người lao động. Việc thiếu hụt kỹ năng đã và đang là một trở ngại lớn đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu. Cùng với đó là sự cạnh tranh về lao động lành nghề, lao động chất lượng cao đi kèm với quá trình chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam ngày càng khốc liệt. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và không ưu tiên cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, cải thiện năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được cộng hưởng và gia tăng khi được chia sẻ một cách đầy đủ trong sự kết nối với các hiệp hội ngành nghề, cũng như nhận được sự lắng nghe, hỗ trợ và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, khó khăn của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, từ địa phương đến Trung ương. Điều này cũng thể hiện cho sự quan tâm và cùng đồng hành, chia sẻ giá trị và trách nhiệm của các cơ quan quản lý với cộng đồng doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ cần có một cơ chế cho các doanh nghiệp đang đi tiên phong về môi trường, với các thể chế liên quan đến những ưu tiên, ưu đãi về thuế và đất đai cho những địa điểm đặt các nhà máy sản xuất, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. TS. Lâm Văn Đoan, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Xã hội của Quốc hội Cần quan tâm xây dựng khung thể chế thúc đẩy việc làm bền vững Trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, những suy giảm hoạt động kinh tế toàn cầu, nhất là sự phục hồi chậm chạp của chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn đang tác động đến sự phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trên cơ sở những khuyến nghị, tư vấn của Tổ chức lao động quốc tế đối với Việt Nam trong giai đoạn 2022-2026, công tác xây dựng pháp luật cần quan tâm xây dựng khung thể chế thúc đẩy việc làm bền vững, cải cách, đổi mới hệ thống chính sách an sinh xã hội thông qua sửa đổi, bổ sung các Luật: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Việc làm, An toàn, vệ sinh lao động; nghiên cứu, rà soát hoàn thiện pháp luật về tố tụng lao động; bảo trợ xã hội; chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi, người khuyết tật. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tập trung phát huy những lĩnh vực mà kết quả đã có nhiều tiến bộ, đồng thời cần giải quyết các vấn đề tồn tại, thách thức như tỷ lệ việc làm phi chính thức còn ở mức cao, tỷ lệ lao động chưa qua bất cứ hình thức đào tạo nghề nào còn cao, trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài/người lao động di cư trong nước còn gặp nhiều khó khăn, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các nhóm đối tượng còn hạn chế. Đặc biệt, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện và nâng cao hiệu quả 03 Chương trình mục tiêu quốc gia: giảm nghèo bền vững, nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. |