Xuất khẩu bền vững: Cơ hội từ các FTA thế hệ mới
Với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 24 trong số 240 nền kinh tế, có thể đánh giá Việt Nam là một trong những cường quốc xuất khẩu của thế giới. Dù trong đại dịch, xuất khẩu vẫn tăng 2 con số, tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu.
Kết quả tích cực từ các FTA
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế. Các FTA này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng, tiếp cận thị trường toàn cầu, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu. Trong đó có các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như: Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, EU, Trung Quốc, Asean, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước cùng tham gia Hiệp định CPTPP ghi nhận sự tăng trưởng rõ rệt. Tính đến tháng 7 năm 2022, xuất khẩu sang Canada đạt 5,3 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm trước; xuất khẩu sang Mexico đạt 4,6 tỷ USD, tăng 44,5%; xuất khẩu sang Peru đạt 560 triệu USD, tăng 84,4%.
Đối với thị trường các nước Hiệp định EVFTA, xuất khẩu sang thị trường EU năm 2021 đạt 40,1 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm trước. Đối với thị trường Anh (Hiệp định UKVFTA), năm 2021 xuất khẩu sang thị trường Vương quốc Anh ghi nhận mức tăng 16,4%, đạt 5,8 tỷ USD.
Hiện tại, trong giai đoạn dịch Covid-19 đã được kiểm soát, triển vọng xuất khẩu vào những thị trường có FTA thế hệ mới với Việt Nam vẫn tiếp tục tăng. Nguyên nhân là do các hiệp định EVFTA, CPTPP và RCEP sẽ tiếp tục mở ra những ưu đãi về thuế quan, tạo động lực thu hút đầu tư để tăng năng lực sản xuất, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu trở nên chuyên nghiệp hơn trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, nhiều nước cũng đang triển khai các gói kích thích kinh tế, kích cầu tiêu dùng, qua đó gia tăng nhu cầu hàng nhập khẩu. Chính vì vậy, thời gian tới xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đã có FTA được dự báo sẽ khả quan, xuất khẩu tiếp tục được kỳ vọng là điểm sáng của nền kinh tế, đảm bảo việc làm cho người lao động và giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đối với ngành da giày, kim ngạch xuất khẩu 7 tháng tăng trưởng 13%, đạt trên 14 tỷ USD. Mức tăng trưởng này là tăng đều ở các thị trường trọng điểm như thị trường Bắc Mỹ tăng trưởng 24%; thị trường EU tăng 17,5%... Các thị trường trọng điểm, đặc biệt là các thị trường có FTA đã duy trì được tốc độ xuất khẩu rất tốt: thị trường CPTPP tăng 10%; thị trường EU là 18%. Đặc biệt, ngành da giày đã tăng tỷ lệ nội địa hóa từ 40-45% lên 55%, chủ động được 70-80% nguyên phụ liệu trong nước đối với mặt hàng giày thể thao.
Đối với ngành dệt may, theo báo cáo của WTO, năm 2020 Việt Nam đã vượt Bangladesh trở thành quốc gia xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Trung Quốc. Trong năm 2021, ngành dệt may xuất khẩu 40 tỷ USD, Tập đoàn Dệt may Việt Nam trong năm 2021 cũng đạt được lợi nhuận cao nhất trong lịch sử 26 năm hình thành với gần 1500 tỷ đồng lợi nhuận. Giai đoạn 6 tháng đầu năm, thị trường vẫn có nhu cầu, lợi nhuận Tập đoàn đạt 981 tỷ và vượt kế hoạch 3%. Doanh thu xuất khẩu đạt hơn 10.000 tỷ và tăng gần 40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Theo chuyên gia kinh tế Lê Quốc Phương, ở chiều ngược lại, các FTA cũng tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp cả trên sân nhà lẫn sân chơi quốc tế, trong khi tiềm lực và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn hạn chế.
Xuất khẩu của Việt Nam chưa bền vững. Kim ngạch xuất khẩu tuy cao nhưng giá trị gia tăng thấp hơn một số quốc gia khu vực ASEAN như Thái Lan, Singapore, Indonesia. Mặc dù cơ cấu hàng hóa chuyển biến mạnh mẽ song chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến chế tạo, gia công lắp ráp, nguyên liệu thô. Điều này cho thấy, hiện xuất khẩu vẫn phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp FDI. “Các doanh nghiệp chưa khai thác hết lợi thế cạnh tranh dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao”, chuyên gia Lê Quốc Phương chia sẻ.
Đại diện Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam cho biết, thách thức lớn nhất trong việc phát triển bền vững khi tham gia các FTA thế hệ mới đó là bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu, quy định về môi trường, lao động... Đây là những yêu cầu được đưa ra rất ngặt nghèo, khắt khe. Nghĩa là khi thực hiện các cam kết FTA, các hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, nhưng các hàng rào phi thuế quan sẽ được dựng lên.
Ví dụ, Đức sẽ đưa ra các đạo luật mới về thẩm định trách nhiệm của các chuỗi cung ứng; hay EU sẽ áp dụng việc đánh thuế đối với phát thải khí CO2 trên mỗi đơn vị sản phẩm. Ngành da giày, dệt may vẫn gặp khó khăn về đầu tư, sản xuất nguyên phụ liệu. Mặt hàng da thuộc hàng năm phải nhập hàng tỷ USD do bị các quy định ngặt nghèo liên quan đến môi trường. Nguyên liệu may mặc cũng phải tuân thủ các quy định mới liên quan đến kỹ thuật dệt nhuộm. Đây cũng chính là hạn chế để hai ngành này tăng tỷ lệ nội địa hoá trong thời gian tới.
Đại diện Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết, Uỷ ban châu Âu đã thông qua một Chiến lược phát triển bền vững và tuần hoàn dệt may của EU. Theo đó, các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của họ trong chuỗi giá trị, kể cả khi chúng trở thành chất thải.
Các rào cản thương mại trong FTA khá đa dạng, thị trường nông sản phải đáp ứng về an toàn thực phẩm, dệt may cần tuân thủ các quy tắc xuất xứ, sản phẩm phải tái chế, tái sử dụng được. Ngoài ra, các doanh nghiệp về tiêu chuẩn lao động, tiêu chuẩn môi trường như, sở hữu trí tuệ… Tất cả những điều này khiến chi phí của doanh nghiệp tăng lên.
Doanh nghiệp cần hướng tới xuất khẩu bền vững, nâng cao kiểm soát chất lượng sản phẩm, chuẩn bị kế hoạch kỹ lướng, chủ động liên kết, chú trọng nguồn nhân lực Ông Lê Hoàng Tài - Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương: Ở góc độ doanh nghiệp, để triển khai và tận dụng hiệu quả các giải pháp XTTM, hướng tới xuất khẩu bền vững cho hàng hóa Việt Nam, thứ nhất, các doanh nghiệp cần nâng cao tính chủ động trong tìm hiểu thông tin, cơ chế chính sách, nghiên cứu thị trường, thẩm định đối tác hoặc phối hợp với các tổ chức XTTM để xây dựng kế hoạch và tham gia triển khai. Thứ hai, cần chú trọng công tác nâng cao và kiểm soát chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh đáp ứng các quy định của thị trường nhập khẩu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và các hàng rào phi thuế quan. Thứ ba, chuẩn bị kế hoạch xuất khẩu cho từng mặt hàng, từng thị trường mục tiêu, chủ động liên kết giữa doanh nghiệp – doanh nghiệp nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong việc đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu. Thứ tư, đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, không chỉ nhân lực trong lĩnh vực sản xuất mà còn nhân lực trong lĩnh vực thương mại. Nhân lực cần có kỹ năng về ngoại ngữ, kỹ năng đàm phán, kỹ năng XTTM, đặc biệt có khả năng nắm bắt xu hướng tiêu dùng hiện đại, cập nhật công nghệ thông tin để thực hiện các hoạt động XTTM hiệu quả, giảm chi phí, xúc tiến xuất khẩu sang thị trường quốc tế một cách chuyên nghiệp và bài bản hơn. Vì hiện vẫn có doanh nghiệp tham gia sự kiện XTTM thiếu bài bản, thiếu kỹ năng và ngoại ngữ dẫn tới không đạt hiệu quả như mong muốn, thâm chí ảnh hưởng tới hoạt động XTTM. Xuất khẩu cần tăng về chất lượng, tỷ lệ nội địa hóa và công nghệ Chuyên gia kinh tế Lê Quốc Phương Để thúc đẩy xuất khẩu phát triển theo hướng bền vững, điều quan trọng, nhà nước cần có chính sách khuyến khích, đảm bảo thực thi làm sao để xuất khẩu chuyển mạnh tăng về chất lượng, giá trị gia tăng, tăng được tỉ lệ nội địa hoá, công nghệ cao hơn. Đầu tiên là phải phát triển được công nghiệp hỗ trợ để tận dụng được các ưu đãi của các FTA, để làm được điều này cần chi phí rất lớn. Về vấn đề này mặc dù chúng ta đã đưa ra kế hoạch từ lâu song chưa làm được nhiều. Cần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để vươn lên ngang bằng với các doanh nghiệp FDI trong nhiều lĩnh vực Ngoài ra, nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm chi phí thời gian cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tập trung vào sản xuất kinh doanh, kiểm soát tốt tình hình xuất khẩu, có các biện pháp phòng vệ thương mạ. Các doanh nghiệp cũng cần tận dụng tốt các biện pháp hỗ trợ của nhà nước; Có chiến lược phát triển phù hợp khi đang tham gia sâu rộng thế giới. Cần đổi mới sáng tạo, hạ giá thành sản phẩm, chuyển đổi số, đổi mới quy trình công nghệ, đổi mới nguồn nhân lực. Những giải pháp này cần đồng bộ không chỉ của nhà nước mà của cả chính doanh nghiệp cùng thực hiện mới có thể hướng đến xuất khẩu bền vững đáp ứng các yêu cầu FTA đề ra. Các doanh nghiệp dệt may cần tuân thủ được các quy tắc xuất xứ, chủ động nguồn nguyên liệu Ông Vương Đức Anh - Chánh Văn phòng Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam: Các FTA thế hệ mới như CPTTP và EVFTA thì đều có những yêu cầu là vải phải sản xuất ở trong các khu vực FTA. Câu chuyện về tự chủ nguồn nguyên liệu sẽ là hướng đi rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp nói chung và ngành dệt may nói riêng có hướng phát triển bền vững trong thời gian tới. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng xác định chiến lược 2025 và tầm nhìn đến 2030 sẽ trở thành một điểm cung ứng trọn gói về các giải pháp cho doanh nghiệp trong các chuỗi cung ứng toàn cầu: cung ứng trọn gói từ sợi, từ vải, cho đến các sản phẩm may mặc cuối cùng cho dòng dệt kim phổ thông. Các sản phẩm hướng tới là sản phẩm xanh, phù hợp với yêu cầu của các nhà bán lẻ lớn. Vinatex cũng phát triển các sản phẩm cho thị trường ngách như vải chống cháy thân thiện với môi trường. Nếu đạt dược mục tiêu, giá trị gia tăng có thể lên tới 80%. Chúng tôi mong muốn có 1 chiến lược trong giai đoạn 2025 đến 2030 cho ngành dệt may và da giày theo định hướng của Chính phủ để để duy trì tính bền vững của xuất khẩu. Doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường, đầu tư phát triển nguồn nhân lực và nguyên phụ liệu Bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký - Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam Để giải quyết và ứng phó với các thách thức, về phía Hiệp hội, chúng tôi có một số kiến nghị: Thứ nhất, các doanh nghiệp sản xuất không nên tập trung một số thị trường mà cần đa dạng hoá thị trường từ nguồn cung cho đến các thị trường xuất khẩu. Với các hoạt động xuất tiến thị trường sẽ được triển khai, chúng tôi hy vọng hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nhiều thị trường hơn và có thể nhập khẩu từ các thị trường khác khi chung ta gặp một số khó khăn do các tác động của tình hình thế giới. Thứ hai, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Như chúng ta thấy, ngành da giày mới chỉ sản xuất được các dòng sản phẩm có chất lượng mới ở mức trung bình của thế giới. Cho nên, nếu muốn có giá trị gia tăng cao, chúng ta phải tiến tới sản xuất được sản phẩm chất lượng cao hơn nữa và nhờ đó giá trị thu về sẽ tốt hơn. Và muốn vậy, chất lượng nguồn nhân lực, kỹ năng, tay nghề của đội ngũ lao động phải được nâng lên, chứ ngành da giày chỉ sử dụng nguồn lao động phổ thông. Trước hạn chế của nguồn nhân lực da giày, việc có giải pháp khắc phục cũng như chiến lược đào tạo nghề cần phải được triển khai, thực hiện hiệu quả hơn. Đặc biệt, cần áp dụng các quy định, yêu cầu về chứng chỉ đối với lao động tham gia trong lĩnh vực da giày. Thứ ba, đối với phát triển nguyên phụ liệu, chúng ta cũng cần tập trung phát triển dòng nguyên phụ liệu hướng tới phát triển bền vững, như môi trường xanh, sạch để bắt kịp với xu hướng của thế giới, vừa đảm bảo ổn định cho ngành sản xuất, vừa gia tăng cơ hội tiếp cận chuỗi cung ứng một cách bền vững. Chiến lược phát triển ngành dệt may, da giày đang được soạn thảo sẽ sớm được phê duyệt, qua đó có hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp hai ngành xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp trong giai đoạn tới đây. |