10.000 tỷ đồng đầu tư vào Đắk Lắk; Nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải 1.414 tỷ đồng
Gần 10.000 tỷ đồng đầu tư vào Đắk Lắk; Phê duyệt Dự án nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải trị giá 1.414 tỷ đồng…
UBND tỉnh Lạng Sơn xin chọn lại nhà đầu tư cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng
Đây là một trong những động thái nhằm hoàn thiện thủ tục triển khai Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc Dự án BOT tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn.
UBND tỉnh Lạng Sơn vừa có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ về việc hoàn thiện thủ tục triển khai Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc Dự án tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn.
Cụ thể, UBND tỉnh Lạng Sơn trong vai trò cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, kiến nghị Thủ tướng đồng ý cho tách Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) ra khỏi Dự án đầu tư tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn thành dự án độc lập để triển khai thực hiện theo quy định hiện hành và giao UBND tỉnh Lạng Sơn tiếp tục là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tổ chức thực hiện dự án sau khi tách.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Lạng Sơn còn kiến nghị giao tỉnh và các nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án của Dự án thành phần 2 hoàn thiện các thủ tục chấm dứt phụ lục hợp đồng và tổ chức lựa chọn lại Nhà đầu tư đoạn tuyến cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng theo quy định hiện hành.
Ông Hồ Tiến Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn cho biết, nếu tách Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc Dự án tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn thành dự án độc lập sẽ đảo đảm tuân thủ đúng Luật PPP và quy định pháp luật liên quan, đồng thời tạo sự rõ ràng, minh bạch, thuận lợi nhất cho các bên trong quá trình thực hiện; tạo sự độc lập với Dự án thành phần 1 đã triển khai xong và đã phê duyệt cơ chế tài chính riêng, đảm bảo đủ điều kiện, căn cứ pháp lý để giải quyết các vướng mắc với nhà đầu tư Dự án thành phần 1 (đã thực hiện 1 số công việc thuộc Dự án thành phần 2 trước khi dự án bị dừng).
Dự án tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn được phê duyệt vào năm 2018 gồm các Dự án thành phần 1 (đoạn Km45+100 - Km108+500, kết hợp tăng cường mặt đường Quốc lộ 1 đoạn Km1+800 - Km106+500) và Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng), sử dụng 100% vốn nhà đầu tư (vốn chủ sở hữu, vốn vay và các nguồn vốn khác), xác định tổng mức đầu tư, các chỉ tiêu tài chính, dữ liệu và tính toán phương án tài chính, hoàn vốn đầu tư theo các dự án thành phần trên nguyên tắc độc lập, có sự chia sẻ, quản lý đồng bộ của toàn dự án.
Hiện nay Dự án thành phần 1 (đoạn Bắc Giang – Chi Lăng) đã hoàn thành, đưa vào khai thác vận hành năm 2020 (không đề xuất điều chỉnh). Trong khi đó, Dự án thành phần 2 do nhà đầu tư và các ngân hàng tài trợ gặp khó khăn về nguồn vốn nên sau khi khởi động năm 2019 đã tạm dừng.
Đến nay, Dự án thành phần 2 đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021 - 2025, cụ thể: vốn ngân sách Trung ương 2.500 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 1.000 tỷ đồng; đồng thời đã có một số ngân hàng cam kết tài trợ vốn, đảm bảo tính khả thi cho phương án tài chính của dự án.
Tuy nhiên, ngày 18/6/2020 Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) với nhiều quy định mới chặt chẽ về quản lý phần vốn nhà nước tham gia vào dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
UBND tỉnh Lạng Sơn cho biết, nếu tiếp tục thực hiện dự án như nội dung đã được phê duyệt thì cần thiết phải thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc dự án cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn. Do dự án sử dụng nhiều nguồn vốn, có sự tham gia của ngân sách nhà nước, trải qua nhiều giai đoạn thực hiện và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau (trước và sau khi có Luật PPP) nên đã gây khó khăn, vướng mắc cho quá trình tổ chức thẩm định, phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư.
Trong thời gian vừa qua, UBND tỉnh Lạng Sơn và các cơ quan có liên quan đã rất nỗ lực hoàn thiện hồ sơ, thúc đẩy tiến độ dự án và nhiều văn bản giải trình liên quan gửi Hội đồng thẩm định liên ngành để phục vụ thẩm định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc Dự án tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn theo phương thức đối PPP nhưng do những khó khăn như đã nêu, đến nay dự án vẫn chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Phú Yên đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng liên quan đến dự án cao tốc
UBND tỉnh Phú Yên vừa yêu cầu các cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ, quyết liệt trong quá trình triển khai thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 (đoạn qua địa bàn tỉnh Phú Yên).
Theo đó, tỉnh Phú Yên đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, đơn vị đảm bảo bàn giao 70% diện tích mặt bằng của các gói thầu xây lắp khởi công trước ngày 20/11/2022; bàn giao toàn bộ diện tích còn lại trong Quý II/2023.
“Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc vượt thẩm quyền, các địa phương kịp thời báo cáo, tham mưu đề xuất UBND tỉnh để tổng hợp”, UBND tỉnh Phú Yên nhấn mạnh.
Cụ thể, UBND tỉnh Phú Yên yêu cầu UBND các huyện, thị xã, thành phố là chủ đầu tư tiểu Dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có trách nhiệm phối hợp với các chủ đầu tư đăng ký kế hoạch vốn thực hiện công tác liên quan.
Sở Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các địa phương có dự án đi qua; các cơ quan, đơn vị tham mưu của UBND tỉnh về nội dung liên quan đến công tác lựa chọn nhà thầu đối với công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phục vụ dự án đảm bảo tiến độ chung theo yêu cầu.
Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh Phú Yên yêu cầu sở này hướng dẫn các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phục vụ dự án
Ngoài ra, UBND tỉnh Phú Yên giao Sở Giao thông Vận tải làm đầu mối, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, địa phương liên quan; kịp thời phối hợp giải quyết các vướng mắc phát sinh.
Trước đó, UBND tỉnh Phú Yên đã giao chủ đầu tư tiểu Dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án thành phần đoạn Quy Nhơn - Chí Thạnh thuộc Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 (đoạn trên địa phận tỉnh Phú Yên) cho UBND thị xã Sông Cầu và UBND huyện Tuy An.
Quảng Ngãi đề nghị cấp 1.400 tỷ để giải phóng mặt bằng Dự án cao tốc Bắc Nam
Chủ tịch UBND tỉnh Đặng Văn Minh vừa ký văn bản gửi Ban Quản lý Dự án 2 -Bộ Giao thông vận tải đề nghị cấp vốn năm 2022 cho công tác giải phóng mặt bằng Dự án thành phần đoạn qua Quảng Ngãi - Hoài Nhơn thuộc Dự án Xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông, giai đoạn 2021 - 2025.
Cao tốc Bắc - Nam đi qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có chiều dài 60,30km. Ảnh minh họa
UBND tỉnh Quảng Ngãi đã khái toán tổng kinh phí thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn tỉnh là 4.197 tỷ đồng.
Theo UBND tỉnh Quảng Ngãi, nhu cầu vốn năm 2022 cần bố trí cho Tiểu dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án thành phần đoạn qua địa bàn Quảng Ngãi là 1.400 tỷ đồng, bao gồm: Chi phí bồi thường trực tiếp cho các hộ dân bị ảnh hưởng bởi dự án (800 tỷ đồng); xây dựng khu tái định cư, khu cải táng mồ mả, di dời công trình công cộng và các chi phí khác (600 tỷ đồng).
Được biết, Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có chiều dài 60,30km đi qua các huyện Tư Nghĩa (4,7km), Nghĩa Hành (17,34km), Mộ Đức (10,81km) và thị xã Đức Phổ (27,45km), có khoảng 1.029 hộ dân di dời tái định cư.
Dự kiến, UBND tỉnh Quảng Ngãi sẽ đầu tư xây dựng 23 khu tái định cư, với tổng số lô đất cần xây dựng khoảng 2.108 lô để bố trí tái định cư cho các hộ dân bị ảnh hưởng dự án, với tổng diện tích quy hoạch xây dựng dự kiến trên 120ha.
Hải Dương bổ sung 83 dự án, công trình vào kế hoạch sử dụng đất năm 2022
UBND tỉnh Hải Dương vừa ban hành quyết định số 2093/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung Kế hoạch sử dụng đất năm 2022 của các huyện, thị xã, thành phố.
Hải Dương bổ sung 83 dự án, công trình vào kế hoạch sử dụng đất năm 2022. Ảnh: Thành Chung
Theo đó, bổ sung danh mục 83 Dự án, công trình phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng vào kế hoạch sử dụng đất năm 2022 của các huyện, thị xã, thành phố với tổng diện tích gần 282 ha.
Cụ thể, tại TP. Chí Linh có 13 dự án, công trình với tổng diện tích là 63,47 ha: Dự án Khu tái định cư phục vụ GPMB dự án xây dựng tuyến đường sắt Lim - Phả Lại (tiếp tục thực hiện phần còn lại); Dự án mở rộng Khu dân cư mới Vĩnh Đại – Văn Đức – Chí Linh; Điểm dân cư mới khu dân cư Trụ Thượng, phường Đồng Lạc (bổ sung diện tích); Dự án Khu dân cư trung tâm xã An Lạc (giai đoạn 2- bổ sung diện tích); Dự án khai thác mỏ sét gốm, sét gạch ngói, cát khu vực hạ lưu hồ Cầu Dòng, phường Cộng Hòa; Xây dựng trụ sở Công an phường Đồng Lạc; Dư án Nhà máy in và thêu Top Gear thuộc cụm công nghiệp Hoàng Tân; Đường nội bộ cụm công nghiệp Hoàng Tân (Dự án Nhà máy gia công hàng may mặc xuất khẩu - bổ sung diện tích); Dự án xây dựng cầu Tân An và đường dẫn (đường nối dài Cầu Hàn đến Quốc lộ 18, kết nối thành phố Hải Dương - Nam Sách - Chí Linh); Khai thác mỏ sét tại phường Cộng Hòa (bổ sung diện tích); Dự án đầu tư xây dựng đường dẫn cầu Đồng Việt (bổ sung diện tích); Nhà máy gạch men WORLDTILE của CTCP Thế Giới (Cụm công nghiệp Tân Dân); Dự án trung tâm thương mại và dịch vụ ô tô Chí Linh.
Tại TP. Hải Dương có 6 dự án, công trình với tổng diện tích 4,64 ha: Dự án xử lý xen kẹp trên địa bàn phường Tứ Minh; Dự án xử lý xen kẹp trên địa bàn phường Thanh Bình; Dự án xây dựng khu nhà ở hỗn hợp cao tầng Ngô Quyền (bổ sung diện tích); Cơ sở sản xuất bao bì Carton Tân Trung Đức; Khu dân cư mới phường Ngọc Châu (phần diện tích còn lại); Dự án tổ hợp kinh doanh thương mại dịch vụ Thuận Phát.
Huyện Tứ Kỳ với Dự án xây dựng đường tỉnh 392 kéo dài (đợt 2 - bổ sung diện tích 3,8 ha).
Huyện Thanh Miện với Dự án đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong cùng thửa đất ở của các hộ gia đình (1 ha).
Huyện Thanh Hà với Dự án xây dựng điểm dân cư mới khu vực Vườn Đìa (bổ sung diện tích 0,25 ha).
Huyện Ninh Giang có 9 dự án, công trình với tổng diện tích 20,13 ha: Dự án xây dựng điểm dân cư số 1,2 thôn Hội Xá; công trình xử lý đất xen kẹp dôi dư; Quy hoạch khu dân cư thôn Giâm Me; Quy hoạch đất ở thôn Kim Húc vị trí số 2; Dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp đường vào đền thờ Khúc Thừa Dụ; Bãi chứa vật liệu xây dựng; Điểm dân cư mới số 3 thôn Cáp; Cơ sở sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi của hộ kinh doanh; Cơ sở sản xuất gia công hàng may mặc của hộ kinh doanh.
Huyện Nam Sách có 12 dự án, công trình với tổng diện tích 36,32 ha: Điểm dân cư mới số 3+4 thôn An Đông, xã An Bình (bổ sung diện tích); Xây dựng điểm dân cư mới thôn An Điền, xã Cộng Hòa (bổ sung diện tích); Khu dân cư phía Nam đường liên xã thị trấn Nam Sách đi Nam Hồng; Khu dân cư phía Bắc đường liên xã thị trấn Nam Sách đi Nam Hồng; Khu dân cư mới Cẩm Hoàng, xã An Lâm (Giai đoạn 1); Khu dân cư mới phía Nam Thôn Đầu Bến; Điểm dân cư mới thôn Đột Trên (khu ao Bộ), xã Nam Tân (bổ sung diện tích); Cơ sở chế biến nông - lâm sản và cho thuê nhà xưởng của CTCP Thương mại Ngọc Oanh HD (bổ sung diện tích); Dự án Cơ sở kinh doanh dịch vụ thương mại tổng hợp (bổ sung diện tích); Điểm xem kẹp Chiềng Cao Đôi (bổ sung diện tích); Đất vườn, ao không được công nhận là đất ở trong cùng thửa đất ở của các hộ gia đình; Điểm dân cư xen kẹp thôn An Điền – Chi Đoan giáp trường Mầm non (bổ sung diện tích).
Ngoài ra, huyện Bình Giang có 4 dự án với diện tích 17,4ha; huyện Cẩm Giàng có 8 dự án với 35,25ha; huyện Gia Lộc có 20 dự án với 36,84 ha; Thị xã Kinh Môn có 4 dự án với 50,46ha; huyện Kim Thành có 4 dự án với 12,34ha.
Để triển khai thực hiên, tỉnh giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với UBND các huyện, thị xã, thành phố, các sở, ngành, đơn vị có liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ và các quy định hiện hành triển khai, hướng dẫn và thực hiện các công việc có liên quan theo quy định của pháp luật; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất theo quy định.
UBND các huyện, thị xã, thành phố, các đơn vị liên quan có trách nhiệm công khai danh mục kế hoạch sử dụng đất; thực hiện cập nhật thông tin, bổ sung danh mục, chỉ tiêu sử dụng đất theo quy định của pháp luật để tổ chức triển khai thực hiện theo đúng kế hoạch sử dụng đất được UBND tỉnh phê duyệt.
TP.HCM khởi động đầu tư đường Vành đai 4
Ngày 9/8, Chủ tịch UBND TP.HCM Phan Văn Mãi đã ký quyết định giao Sở GTVT TPHCM chuẩn bị đầu tư Dự án đường Vành đai 4 đoạn cầu qua sông Sài Gòn - kênh Thầy Cai (gồm cầu vượt sông Sài Gòn) với chiều dài khoảng 17 km được đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).
Quy hoạch hướng tuyến đường Vành đai 4 TP.HCM
Sở GTVT TP.HCM được giao là đơn vị chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi và thực hiện các nhiệm vụ khác có liên quan theo quy định của Luật đầu tư.
Sở Kế hoạch, Đầu tư được giao tham mưu, đề xuất UBND TP.HCM triển khai các thủ tục đầu tư dự án theo đúng quy định.
Đường Vành đai 4 (TP.HCM) có chiều dài gần 200km, dự án sẽ đi qua TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Long An và Bà Rịa - Vũng Tàu. Điểm đầu của dự án giao với đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (thị xã Phú Mỹ), điểm cuối kết nối tại cảng Hiệp Phước, TP.HCM. Dự án có tổng vốn đầu tư khoảng 100.000 tỷ đồng
Dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phân chia cho các địa phương nơi có dự án đi qua trực tiếp huy động vốn để đầu tư.
Cụ thể, tỉnh Long An chịu trách nhiệm đầu tư đoạn Thầy Cai - Hiệp Phước (dài 71km); TPHCM đầu tư đoạn từ cầu vượt sông Sài Gòn đến kênh Thầy Cai (dài 17km); Bình Dương đầu tư đoạn từ cầu Thủ Biên - sông Sài Gòn (dài 49km); Đồng Nai đầu tư đoạn từ Bầu Cạn - cầu Thủ Biên (dài 45km); Bà Rịa - Vũng Tàu đầu tư đoạn từ Phú Mỹ - Bầu Cạn (dài 18km).
Theo kế hoạch dự kiến đã được các địa phương xây dựng và thảo luận, dự án sẽ khởi công vào năm 2024, đưa vào khai thác giai đoạn 1 năm 2028.
Như vậy, sau khi chuẩn bị xong việc đầu tư đường Vành đai 3 (dự kiến khởi công giữa năm 2023), TP.HCM đã bắt tay vào chuẩn bị đầu tư Dự án đường Vành đai 4. Có thể thấy sự khẩn trương của chính quyền TP.HCM trong việc đầu tư hai dự án đường Vành đai 3 và 4 vì đây là 2 dự án liên kết vùng sẽ giải tỏa điểm nghẽn hạ tầng hiện nay. Từ đó, thúc đẩy việc luân chuyển hàng hóa giữa các vùng tạo động lực cho phát triển kinh tế của cả khu vực phía Nam.
Làm rõ thêm phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu
UBND TP. HCM được yêu cầu làm rõ thêm phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu với cao tốc TP. HCM- Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP. HCM.
Ảnh minh họa.
Đây là nội dung nổi bật trong công văn số 8158/BGTVGT – KHĐT vừa được Bộ GTVT gửi UBND TP.HCM liên quan đến phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu với cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP. HCM do địa phương này đề xuất.
Theo Bộ Giao thông - Vận tải (GTVT), hồ sơ gửi kèm theo văn bản đề xuất của UBND TP.HCM chỉ bao gồm phương án hướng tuyến, sơ bộ phương án kết nối với đường vành đai 3 và cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây, chưa bao gồm: số liệu về hiện trạng tình hình vận tải, giao thông khu vực liên cảng Cát Lái - Phú Hữu; số liệu về các loại phương tiện vận tải khu vực liên cảng; nội dung phân tích nhu cầu vận tải đi/đến các cảng theo các hướng; số liệu dự báo phân bổ lưu lượng vận tải khi kết nối với đường vành đai 3, cao tốc TP. HCM- Long Thành - Dầu Giây; phân tích phương án tổ chức giao thông; quy mô các nhánh rẽ...
Lãnh đạo Bộ GTVT cho rằng, các tuyến đường cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây và đường vành đai 3 được ưu tiên bảo đảm năng lực thông hành với tốc độ tối đa trong mọi điều kiện.
Hiện nay, khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu không bố trí bãi đỗ xe dừng, chờ làm thủ tục thông quan; trong khi số lượng xe tải tới cảng tăng nhanh trong những năm qua gây ùn tắc giao thông khu vực cảng.
Bộ GTVT lo ngại trường hợp kết nối trực tiếp từ các tuyến đường cao tốc (TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây, đường vành đai 3) vào khu vực liên cảng, tình trạng ùn tắc giao thông khu vực cảng có thể dẫn tới ùn tắc giao thông trên các nhánh rẽ của đường cao tốc; làm giảm năng lực thông hành các tuyến đường này.
“Để có đầy đủ cơ sở tham gia ý kiến đối với phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu với cao tốc TP.HCM- Long Thành - Dầu Giây và đường vành đai 3, đặc biệt là đánh giá tính khả thi, khả năng tổ chức giao thông, năng lực thông hành của các tuyến đường; Bộ GTVT đề nghị UBND TP. HCM chỉ đạo các cơ quan, đơn vị rà soát, cung cấp bổ sung hồ sơ, số liệu có liên quan”, công văn của Bộ GTVT nêu rõ.
Trước đó, UBND TP. HCM đã có công văn đề nghị Bộ GTVT cho ý kiến về phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu vào cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP. HCM.
Theo lãnh đạo TP. HCM, cảng Tân Cảng - Cát Lái nằm trên sông Đồng Nai thuộc khu Đông Bắc của TP. HCM, là cảng trọng điểm, quan trọng đối với xuất nhập khẩu hàng hóa của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và thành phố nói riêng. Sản lượng hàng container của cảng Cát Lái hiện chiếm khoảng 85% so với các cảng phía Nam và 50% so với các cảng trên cả nước.
Hiện nay, giao thông ra vào khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu rất khó khăn, thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông. Trong quá trình nghiên cứu, lập quy hoạch chung TP. Thủ Đức (đã được Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Nhiệm vụ quy hoạch), TP.HCM thấy cần thiết nghiên cứu bổ sung quy hoạch, đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối cảng Cát Lái - Phú Hữu - cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP. HCM.
Lãnh đạo thành phố cho biết là hiện UBND TP.HCM đã cơ bản hoàn chỉnh phương án thiết kế khả thi kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu vào cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP.HCM.
Phương án này bao gồm việc hình thành tuyến đường mới kết nối hệ thống cảng Cát Lái - Phú Hữu vào 2 tuyến đường cao tốc; là đường chuyên dụng, chủ yếu phục vụ vận tải hàng hóa ra vào cảng Cát Lái - Phú Hữu; góp phần chia sẻ lưu lượng, giảm thiểu nguy cơ ùn tắc giao thông các tuyến đường Nguyễn Thị Định, Đồng Văn Cống, Nguyễn Duy Trịnh…; kết hợp điều chỉnh quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, bổ sung các khu vực dịch vụ logistic lân cận cụm cảng Cát Lái - Phú Hữu.
Tuyến có điểm đầu từ đường Nguyễn Thị Định, đi qua rạch Bà Cua, rạch Ông Nhiêu; điểm cuối tại nút giao Vành đai 3, chiều dài khoảng 6,0 Km. Trong đó, đoạn từ đường Nguyễn Thị Tư đến rạch Ông Nhiêu: tuyến đường gồm cầu cạn và đường song hành hai bên cầu; đoạn từ rạch Ông Nhiêu đến Vành đai 3: tuyến đường đi trên cao.
Mặt cắt ngang của tuyến rộng 60m, với 12 làn xe, trong đó, đoạn từ đường Nguyễn Thị Định đến đường Nguyễn Thị Tư đi bằng; từ đường Nguyễn Thị Tư đến nút vành đai 3 tuyến đi trên cao.
Về nút giao và điểm lên xuống, UBND TP. HCM đề xuất tại vị trí cảng Phú Hữu sẽ bố trí 2 nhánh cầu lên xuống cảng Phú Hữu; tại điểm cuối tuyến sẽ kết nối với Vành đai 3 tại vị trí nút giao cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP.HCM.
Được biết, các phương tiện trên tuyến đường này được tổ chức giao thông từ khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu vào vành đai 3, cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây và ngược lại dựa trên nguyên tắc dòng xe di chuyển liên tục; kết nối các hướng bằng các nhánh rẽ phải với vận tốc thiết kế 60 km/h.
Dự kiến khối lượng giải phóng mặt bằng phục vụ phương án kết nối giao thông khu vực cảng Cát Lái - Phú Hữu vào cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây và vành đai 3 TP. HCM khoảng 59 ha.
Đắk Nông thu hút 396 dự án, tổng vốn hơn 74.000 tỷ đồng
Ngày 10/8, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Nông cho biết, từ khi thành lập Tỉnh đến nay, địa phương đã thu hút đầu tư 396 Dự án với tổng vốn đăng ký trên 74.000 tỷ đồng.
Lĩnh vực công nghiệp và điện năng chiếm 31,5% tổng số dự án đầu tư vào Đắk Nông.
Trong đó, vốn đầu tư trong nước là 384 dự án, với tổng vốn đầu tư là 66.739 tỷ đồng, chiếm 90,2% tổng vốn đăng ký. Trong khi vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chỉ 12 dự án, với tổng vốn đầu tư 7.261 tỷ đồng, chiếm 9,8% tổng vốn đăng ký.
Về các lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp và điện năng có 125 dự án, chiếm 31,5% tổng số dự án đầu tư, tập trung vào các dự án nhà máy sản xuất, chế biến gạch không nung, đá, các sản phẩm như cà phê, hồ tiêu, phân bón, nhà máy điện năng lượng mặt trời, điện gió, công trình thủy điện…
Lĩnh vực Nông lâm nghiệp có 117 dự án, chiếm 29,5% tổng số dự án đầu tư, chủ yếu là các dự án trang trại nuôi heo, Dự án phát triển vùng tiêu sạch và tiêu sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, trồng rừng…
Trong khi đó, lĩnh vực hạ tầng, đô thị là 45 dự án, chiếm 11,4% tổng số dự án đầu tư, tập trung vào các dự án về khu văn phòng nhà ở, hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, khu nhà ở xã hội...
Các lĩnh vực khác có 106 dự án, chiếm 27,6% tổng số dự án đầu tư, tập trung các công trình khai thác khoáng sản, chế biến đá, Trung tâm trưng bày, bảo hành, bảo trì xe ô tô, xe gắn máy, kinh doanh xăng dầu, Dự án đầu tư khu dịch vụ vui chơi, giải trí…
Cũng theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Nông, Sở đã tham mưu UBND tỉnh chấm dứt hoạt động khoảng 120. Nguyên nhân chủ yếu là do nhà đầu tư vi phạm về pháp luật đất đai do vi phạm các nghĩa vụ tài chính về đất đai, để dân lấn chiếm phá rừng.
Ngoài ra nhà đầu tư vi phạm pháp luật về đầu tư như chậm tiến độ thực hiện dự án, không ký quỹ hoặc không có bảo lãnh nghĩa vụ theo quy định của pháp luật đối với dự án đầu tư thuộc diện bảo đảm thực hiện dự án đầu tư theo quy định. Nhà đầu tư tự quyết định chấm dứt hoạt động dự án theo quy định pháp luật về đầu tư ...
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Nông, một trong những nguyên nhân khiến thu hút đầu tư của tỉnh chưa như kỳ vọng là do vướng về quy hoạch.
Trong những năm qua, Tỉnh chưa có quy hoạch chung; các quy hoạch ngành như: dụng đất, quy hoạch bôxit, khoáng sản, quy hoạch 3 loại rừng, quy hoạch đô thị - xây dựng, quy hoạch đất quốc phòng chưa được hoàn thiện, nhiều vị trí kêu gọi đầu tư chưa thực hiện quy hoạch hoặc quy hoạch còn chồng chéo … dẫn đến khó khăn cho việc xây dựng thông tin các dự án để thu hút đầu tư.
Ngoài ra, các nhà đầu tư quan tâm và có ý định đầu tư phải mất rất nhiều thời gian để hoàn thành các quy hoạch có liên quan để đảm bảo điều kiện thẩm định và chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định.
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Nông cho biết, Đắk Nông đang thực hiện quy hoạch tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. UBND tỉnh Đắk Nông đang chỉ đạo quyết liệt để sớm trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trên cơ sở quy hoạch chung của tỉnh được phê duyệt, Đắk Nông sẽ tập trung các nguồn lực hoặc huy động từ xã hội để sớm triển khai các quy hoạch ngành. Trong đó, tập trung ưu tiên quy hoạch các ngành Công nghiệp; Nông – lâm nghiệp; Du lịch. Từ đó sớm hoàn thiện các cơ sở pháp lý kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước nhằm thực hiện tốt 3 trụ cột kinh tế của tỉnh.
Ngoài ra, Đắk Nông sẽ đổi mới công tác xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động tiếp cận nhà đầu tư; giải quyết thủ tục hành chính về đầu tư nhanh, gọn hơn tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện thủ tục đầu tư dự án...
Thứ trưởng Võ Thành Thống: Khu kinh tế cửa khẩu cần thực hiện đa mục tiêu
Tại Hội thảo khoa học Quan điểm, định hướng giải pháp phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài theo hướng đô thị - công nghiệp - dịch vụ cửa khẩu xanh, bền vững giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Thành Thống đã nêu ra một số quan điểm trong việc quy hoạch và phát triển Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh).
Thứ trưởng Võ Thành Thống cho rằng, việc phát triển sản xuất, thương mại trong khu kinh tế cửa khẩu cần tạo ra liên kết theo chuỗi, liên ngành, liên vùng
Theo Thứ trưởng Võ Thành Thống, kể từ khi Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài được thành lập, đặc biệt từ năm 2004 khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 144/2004/QĐ-TTg nhằm bổ sung một số chính sách ưu đãi cho KKTCK Mộc Bài, các hoạt động thương mại, dịch vụ đã có nhiều chuyển biến mới, khách du lịch đến tham quan và qua lại biên giới ngày càng tăng.
Tuy nhiên, so với những tiềm năng phát triển, việc thu hút đầu tư vào KKTCK Mộc Bài vẫn chưa tương xứng dẫn tới việc thực hiện quy hoạch chung xây dựng còn hạn chế, chưa thu hút được các Dự án đầu tư nước ngoài có chất lượng, có tầm cỡ quốc tế. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về quy mô, chất lượng, chưa đồng bộ nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hợp tác.
Ngoài ra, các chính sách thương mại theo xu hướng phát triển thị trường đã có nhiều thay đổi, phía Campuchia cũng chưa tập trung đầu tư phát triển thỏa đáng nên KKTCK Mộc Bài không đạt kết quả như mong muốn, đây cũng là vấn đề chung đối với nhiều KKTCK khác.
Về kiến nghị phát triển KKTCK Mộc Bài theo hướng khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ cửa khẩu xanh, bền vững, Thứ trưởng Thống cho biết việc điều chỉnh định hướng phát triển KKTCK Mộc Bài phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực để phát huy hiệu quả và vai trò then chốt tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh là cần thiết.
Tuy nhiên, để điều chỉnh định hướng, giải pháp phát triển chính của KKTCK Mộc Bài theo hướng Khu đô thị - công nghiệp - dịch vụ cửa khẩu xanh, bền vững cần được cân nhắc, đánh giá thận trọng.
Thứ trưởng Thống cho biết, mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ đã được một số quốc gia trên thế giới phát triển, cụ thể như: Thái Lan, Hàn Quốc... Đây là mô hình kết hợp giữa phát triển công nghiệp với đô thị hóa, đảm bảo sự phát triển bền vững của khu công nghiệp.
Trong mô hình này, ngoài khu chức năng là khu sản xuất công nghiệp còn có các khu chức năng khác như: giáo dục, y tế, vui chơi giải trí... Mô hình đã được phát triển thành mô hình “thành phố công nghiệp”, “thành phố thông minh” (smart city) tại Trung Quốc, tạo môi trường sống và làm việc đẳng cấp quốc tế, thu hút và phát triển các ngành công nghệ cao, mũi nhọn…
Tại Việt Nam, nhiều chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp cũng đầu tư đồng bộ khu đô thị, dịch vụ liền kề khu công nghiệp, tạo thành tổng thể một khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ như Khu công nghiệp đô thị dịch vụ VSIP tại Bình Dương, Bắc Ninh, Quảng Ngãi. Tuy nhiên, hiện nay việc quy hoạch, đầu tư phát triển mô hình này thường được các chủ đầu tư triển khai riêng lẽ theo các quy định pháp luật chuyên ngành.
Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao xây dựng Dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định phát triển khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài theo hướng công nghiệp- đô thị - thương mại - dịch vụ.
Do vậy, việc phát triển KKTCK Mộc Bài theo hướng Khu đô thị - công nghiệp - dịch vụ cửa khẩu xanh, bền vững cần được xem xét, cân nhắc phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, xác định cụ thể quan điểm, mục tiêu trọng tâm, lựa chọn lĩnh vực phát triển theo thứ tự ưu tiên để đề xuất định hướng phù hợp.
Thứ trưởng Thống cho rằng, khu kinh tế cửa khẩu cần thực hiện đa mục tiêu gồm kinh tế, an ninh - quốc phòng và ngoại giao.
Trong đó, Khu kinh tế cửa khẩu cần phát triển phù hợp hiến lược phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước theo từng thời kỳ. Đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước và đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã khu vực biên giới, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững tại KKTCK Mộc Bài.
Ngoài ra, chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu cần xác định tầm nhìn dài hạn và có tính linh hoạt để kịp thời điều chỉnh với môi trường kinh tế, trị và xã hội luôn biến động.
“Cần tận dụng lợi thế sẵn có về vị trí địa lý, tự lao động để phục vụ mục tiêu ngắn hạn đồng thời xây dựng chính sách phù huy động tổng hợp các nguồn lực đầu tư để phục vụ kế hoạch dài hạn”, Thứ trưởng Thống nói thêm.
Theo Thứ trưởng Võ Thành Thống, để phát triển khu kinh tế cửa khẩu cũng cần tạo lập môi trường sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa thông thoáng, thuận lợi.
“Bên cạnh những ưu đãi về thuế, phí, tài chính dành cho doanh nghiệp, công tác quản lý nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của Khu kinh tế cửa khẩu”, Thứ trưởng Thống nói và cho rằng, việc cải cách thủ tục hành chính, tăng cường công tác phối hợp giữa các quan chức năng quản lý nhà nước trong khu kinh tế cửa khẩu cũng như mức độ hợp tác với các cơ quan chức năng tại nước láng giềng cần được chú trọng.
Ngoài ra, việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu cần phân bổ phù hợp về không gian giữa khu vực sản xuất, thương mại, đô thị. Trong đó, cần chú trọng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch.
“Khu kinh tế cửa khẩu cần phát huy là vai trò động lực tăng trưởng của tỉnh và vùng Đông Nam Bộ, tận dụng lợi thế là vùng trung tâm trong khu vực cửa ngõ của hành lang kinh tế Xuyên Á để kéo theo các khu vực lân cận phát triển. Phát triển đa dạng các loại hình sản xuất, thương mại, du lịch và dịch vụ. Việc phát triển sản xuất, thương mại trong khu kinh tế cửa khẩu cần tạo ra liên kết theo chuỗi, liên ngành, liên vùng”, Thứ trưởng Thống nhấn mạnh.
Điểm cuối cùng, cần chú trọng phát triển hạ tầng đồng bộ, bao gồm hạ tầng phục vụ sản xuất của doanh nghiệp, logistics, thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu và kết cấu hạ tầng thiết yếu cho sinh hoạt của người dân. Sử dụng nguồn vốn ngân sách và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định để đầu tư các công trình thiết yếu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị cho Khu kinh tế cửa khẩu.
Tổng số vốn Ngân sách trung ương hỗ trợ Khi Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài đến nay là 358 tỷ đồng
Thứ trưởng Võ Thành Thống cho biết, trong thời gian qua, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tại các KKTCK chủ yếu do ngân sách nhà nước hỗ trợ. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách nhà nước hạn hẹp nên việc đầu tư cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Tổng số vốn NSTW hỗ trợ KKTCK Mộc Bài đến nay là 358 tỷ đồng, trong đó giai đoạn từ 2004 đến 2010 là 128,2 tỷ đồng; Giai đoạn 2011 - 2015 là 224,8 tỷ đồng; Giai đoạn 2013 – 2015 là 139,8 tỷ đồng; Giai đoạn 2016 - 2020, KKTCK Mộc Bài được lựa chọn là 1 trong 9 KKTCK được ưu tiên tập trung đầu tư, tuy nhiên, tỉnh chỉ đề xuất 1 dự án chuyển tiếp, với số vốn là 5 tỷ đồng; Giai đoạn 2021 - 2025, KKTCK Mộc Bài tiếp tục được lựa chọn là 1 trong 8 KKTCK được ưu tiên tập trung đầu tư với số vốn là 360,4 tỷ đồng.
Việc bố trí nguồn vốn cho KKTCK Mộc Bài do tỉnh chủ động cân đối trong tổng số vốn ngân sách Trung ương đã bố trí cho địa phương theo đúng các quy định hiện hành.
Quảng Nam cần 4.164 tỷ đồng để giải phóng mặt bằng dự án làng Đại học Đà Nẵng
Ông Lê Trí Thanh cho hay, ông đã ký Văn bản về “tình hình triển khai Dự án làng Đại học Đà Nẵng trên địa phận TX. Điện Bàn” gửi Văn Phòng Chính phủ, Bộ Giáo và Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan.
Cụ thể, dự án làng Đại học Đà Nẵng được Chính phủ phê duyệt triển khai từ năm 1997 với tổng diện tích khoảng 300 ha nằm giữa hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng. Trong đó, khoảng 110 ha thuộc quận Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) và khoảng 190 ha thuộc phường Điện Ngọc (thị xã Điện Bàn).
Dự án tính đến thời điểm này đã kéo dài 25 năm, nhưng mới chỉ triển khai được một phần thuộc địa phận Đà Nẵng. Dự án kéo dài đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân, công tác quản lý an ninh, trật tự xã hội và xây dựng tại địa phương.
Qua kiểm tra, rà soát thì dự án phần lớn ảnh hưởng đến đất ở và nhà ở của nhân dân (tỷ lệ đất ở bị ảnh hưởng chiếm khoảng 41% tổng diện tích đất dự án) dẫn đến chi phí bồi thường tăng cao và rất khó khăn, phức tạp trong công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư, văn bản nêu rõ.
Theo tính toán của tỉnh Quảng Nam, dự kiến chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực tế phần diện tích 160 ha (30 ha đã được chỉnh trang) vào khoảng 4.164 tỷ đồng.
“Việc đầu tư xây dựng Đại học Đà Nẵng theo hồ sơ quy hoạch phân khu (1/2000) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 986/QĐTTg ngày 09/7/2020 là cần thiết. Góp phần đưa Đại học Đà Nẵng trở thành Đại học quốc gia, trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực miền Trung, Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và khu vực”, lãnh đoạ tỉnh Quảng Nam cho hay.
Và Chủ tịch tỉnh Quảng Nam cũng cho rằng, Tỉnh Quảng Nam ủng hộ việc tiếp tục triển khai thực hiện dự án theo quy hoạch đã được phê duyệt. Tuy nhiên, dự án đã kéo dài 25 năm, gây bức xúc trong chính quyền địa phương và nhân dân (người dân không được thực hiện các quyền về đất đai, xây dựng, nhân khẩu theo quy định của pháp luật).
Vì vậy, tỉnh đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, cùng các Bộ, ngành Trung ương xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ bố trí đủ nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu liên quan, ông Thanh cho biết.
Cụ thể, tỉnh Quảng Nam đề xuất trước mắt cần bố trí đủ nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng toàn bộ diện tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2023 - 2025 (160 ha).
Trong trường hợp không bố trí đủ nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng toàn bộ diện tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ nay đến năm 2025, tỉnh đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh Quy hoạch phân khu (1/2000) để tập trung triển khai thực hiện trên phần diện tích khoảng 50 ha nêu trên, công văn nêu rõ.
Phần diện tích còn lại loại ra khỏi ranh giới dự án để UBND tỉnh Quảng Nam lập quy hoạch chỉnh trang, đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân tại khu vực. Đồng thời, hình thành khu đô thị vệ tinh phục vụ Làng Đại học Đà Nẵng.
Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài là một giải pháp mở rộng không gian phát triển cho vùng TP.HCM
Bên cạnh mời gọi các nhà đầu tư lớn đầu tư vào Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, cần thiết phải hỗ trợ thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo chuỗi liên kết phát triển.
Đó là quan điểm của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), tại Hội thảo khoa học Quan điểm, định hướng giải pháp phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài theo hướng đô thị - công nghiệp – dịch vụ cửa khẩu xanh, bền vững giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài là một giải pháp mở rộng không gian phát triển cho vùng TP. HCM và cho khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam.
Hiện nay, mô hình phát triển siêu đô thị, đại công trường và sự quá tải về hạ tầng kinh tế xã hội tại TP.HCM và các trung tâm công nghiệp phía Nam được bộc lộ rõ ràng trước tác động của đại dịch Covid -19 đã cho thấy chúng ta cần có sự mở rộng về không gian phát triển.
Mặt khác, sự phát triển chậm lại của các đầu tàu kinh tế này cũng cho thấy xu hướng hình thành các siêu đô thị, đại công trường và các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, thâm dụng tài nguyên tại TP. HCM và các tỉnh lân cận đã không còn là mô hình phù hợp.
Mô hình phát triển theo kiểu đàn sếu bay, lan toả được làn sóng phát triển theo kiểu trung tâm – vệ tinh trong một chuỗi liên kết trải rộng trên các địa bàn không gian rộng hơn phải là một định hướng quan trọng cho giai đoạn phát triển mới.
Trong khi đó, Đồng bằng sông Cửu Long đứng trước nguy cơ lớn về biến đổi khí hậu, nước biển dâng thì việc lan toả không gian phát triển công nghiệp về những vùng cao hơn, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai là cần thiết.
“Mộc Bài là một sự lựa chọn phù hợp. Mộc Bài có quy mô 21,284 ha, có đủ dư địa để đón nhận dòng dịch chuyển công nghiệp lớn”, ông Lộc nhấn mạnh.
Ông Lộc cho rằng, mặc dù những kết quả đóng góp của khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài trong thời gian qua còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên, là cửa khẩu quốc tế đường bộ lớn nhất ở phía Nam, việc phát triển khu kinh tế Mộc Bài sẽ tạo ra những động lực mới cho sự phát triển của Tây Ninh và cả nước.
“Chúng ta xây dựng khu kinh tế Mộc Bài với tầm nhìn phát triển chuỗi công nghiệp – đô thị Mộc Bài – TP. HCM – Cảng Cái Mép – Thị Vải gắn với hành lang kinh tế Xuyên Á. Đây là chuỗi công nghiệp đô thị huyết mạch gắn trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước là TP.HCM với siêu cảng Cái Mép – Thị Vải và siêu cửa khẩu Mộc Bài kết nối với Campuchia với vùng Mê Công mở rộng, với ASEAN với tuyến đường xuyên Á”, ông Lộc nhấn mạnh.
Theo ông Lộc, đầu tư phát triển khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài không chỉ là cho Mộc Bài, không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là đầu tư cho an ninh quốc phòng của đất nước, một phương thức để gắn kết và hợp tác cùng có lợi và củng cố tình hữu nghị với nước bạn Campuchia.
Ngoài ra, Mộc Bài có lợi thế của người đi sau, có thể tránh được những sai lầm của những trung tâm công nghiệp - đô thị đi trước, tránh được hội chứng siêu đô thị, đại công trường. Do đó, ông Lộc đề nghị xây dựng ở đây mô hình khu công nghiệp – đô thị - dịch vụ và giao lưu quốc tế như một hệ sinh thái.
“Hạ tầng khu công nghiệp theo quan niệm đó không chỉ là nhà xưởng, mà còn phải bao gồm cả các dịch vụ xã hội, các dịch vụ hỗ trợ pháp lý và phát triển kinh doanh để yểm trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp và nhà đầu tư”, ông Lộc nói thêm.
Theo ông Lộc, Mộc Bài cũng nên là mô hình của sự gắn kết công - nông nghiệp, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến theo các chuỗi cung ứng từ các tỉnh thành phố của Việt Nam và từ nước bạn Campuchia. Chuỗi cung ứng của Mộc Bài là chuỗi cung ứng xuyên biên giới.
Ông Lộc cho rằng, trong chiến lược phát triển, bên cạnh việc chủ trương mời gọi các “con sếu đầu đàn” tầm cỡ, các nhà đầu tư có kinh nghiệm phát triển công nghiệp – đô thị - dịch vụ trong nước và quốc tế để đóng vai trò trung tâm của các chuỗi liên kết, thì rất cần có kế hoạch hỗ trợ thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, nâng cao năng lực của khối doanh nghiệp này để có thể tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp lớn, liên kết được các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở địa phương với các doanh nghiệp lớn đến từ trong và ngoài nước.
Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở địa phương cũng chính là một thành tố quan trọng của hệ sinh thái phát triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư.
Để chỉ đạo thực hiện kế hoạch này, ông Lộc đề nghị thành lập cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và cung ứng các dịch vụ phát triển kinh doanh trong khu kinh tế. Đồng thời thành lập Hội đồng doanh nghiệp Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và Hội đồng tư vấn phát triển khu kinh tế với sự tham gia của các nhà khoa học, doanh nhân. Các thiết chế này theo tôi rất cần thiết cho sự phát triển của khu.
“Với những thể chế đặc thù vượt trội, chúng ta cũng kỳ vọng Mộc Bài sẽ là một không gian khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của đất nước”, ông Lộc nói.
Về hình thức thu hút đầu tư trong phát triển khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, ông Lộc cho rằng, bên cạnh việc huy động đầu tư tư nhân, đầu tư công, phương thức đầu tư theo mô hình đối tác công - tư dưới nhiều hình thức khác nhau nên được nghiên cứu thực hiện và trong cơ chế đặc thù vượt trội có nội dung cho phép thử nghiệm những lĩnh vực và hình thức mới của đối tác công tư.
“Kinh nghiệm của nhiều địa phương đi trước cho thấy, đối tác công - tư có thể mở ra nhiều tiềm năng cho việc giải quyết các nút thắt cơ sở hạ tầng và các công trình phát triển kinh tế xã hội”, Chủ tịch VIAC gợi ý.
Gần 10.000 tỷ đồng đầu tư vào Đắk Lắk
Ngày 11/8, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk cho biết, từ đầu năm đến nay, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư 5 Dự án; tổng số vốn đầu tư là 9.985 tỷ đồng.
Tại Hội nghị Xúc tiến đầu tư lĩnh vực nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk năm 2022, tỉnh Đắk Lắk đã chấp thuận chủ trương nhiều dự án.
So với cùng kỳ năm 2021 thì giảm 6 dự án. Trong 5 tháng đầu năm 2021, tỉnh Đắk Lắk cấp chủ trương đầu tư cho 11 dự án, với tổng vốn đăng ký là 10.238 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ước thực hiện năm 2022 toàn tỉnh Đắk Lắk sẽ thu hút được khoảng 20 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 22.000 tỷ đồng.
Trong đó, dự kiến đến cuối năm 2022 sẽ triển khai 5 dự án; gồm Trồng cao su tại huyện Ea Hleo, tổng vốn đầu tư tăng thêm khoảng 5.650 tỷ đồng; Khu đô thị mới Tây Bắc Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, vốn đầu tư khoảng 2.385 tỷ đồng; Nhà máy chế biến trái cây xuất khẩu Chánh Thu tại huyện Cư Mgar, vốn đầu tư khoảng 476 tỷ đồng...
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk, trong tháng 4/2022, UBND tỉnh phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị Xúc tiến đầu tư lĩnh vực nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk năm 2022. Tại Hội nghị này, UBND tỉnh đã trao Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư 4 dự án, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 2 dự án, 13 dự án ký kết Bản ghi nhớ hợp tác đầu tư, với tổng vốn được cam kết đầu tư trên 25.000 tỷ đồng…
Cũng theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk, hiện nay một số lĩnh vực thu hút đầu tư của tỉnh được nhiều nhà đầu tư lớn quan tâm là năng lượng tái tạo, phát triển đô thị, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.
Sau khi đăng ký đầu tư, nhà đầu tư đã tích cực triển khai các thủ tục đầu tư, tiến hành đầu tư xây dựng các hạng mục công trình dự án để sớm hoàn thành đi vào hoạt động đúng với tiến độ cam kết.
Vì vậy, hứa hẹn trong thời gian đến sẽ có một số dự án lớn được triển khai, như các dự án điện mặt trời tại huyện Buôn Đôn, điện gió tại các huyện Ea H’leo, Krông Buk, Krông Năng và thị xã Buôn Hồ; quần thể sân golf và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại khu vực hồ Ea Kao;… và các dự án khu đô thị dân cư trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột và các huyện, thị xã Buôn Hồ.
Trong những tháng qua, có khoảng 100 lượt nhà đầu tư đến tìm hiểu môi trường và cơ hội đầu tư tại tỉnh, trong đó có những nhà đầu tư nhiều tiềm năng Tập đoàn Sungroup, Tập đoàn Tổng Công ty cổ phần Bưu chính Viettel, Tập đoàn Xuân Thiện, Công ty CP tập đoàn T&T, Công ty CP đầu tư xây dựng Trung Nam, Công ty CP Tập đoàn bất động sảnThắng Lợi....
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk cho biết, tỉnh đang xây dựng Danh mục dự án thu hút đầu tư trong giai đoạn tới, dự kiến hoàn thành trong Quý 3/2022. Sau khi Danh mục dự án thu hút đầu tư được phê duyệt sẽ công bố thông tin danh mục dự án để tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin của các nhà đầu tư quan tâm, làm cơ sở để tổ chức lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử dụng đất trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, các sở, ngành trong tỉnh chủ động theo dõi tiến độ thực hiện các dự án đầu tư để kịp thời nắm bắt và có hướng tham mưu tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án.
Thực hiện tốt nhiệm vụ đồng hành cùng doanh nghiệp, nhà đầu tư để hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án và hoạt động sản xuất kinh doanh. Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh.
Hậu Giang chấp thuận chủ trương đầu tư Nhà máy chế biến nông sản; thức ăn chăn nuôi
Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang Nguyễn Văn Hòa vừa ký Quyết định số 1393/QĐ-UBND chấp thuận chủ trương đầu tư, đồng thời chấp thuận nhà đầu tư đối với Công ty TNHH Dinh dưỡng Phú Sỹ (Địa chỉ trụ sở chính tại Cụm công nghiệp Quang Vinh, xã Quang Vinh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) thực hiện Dự án Nhà máy chế biến nông sản và thức ăn chăn nuôi Fujinuco.
Dự án có quy mô diện tích khoảng 3,3 ha, công suất thiết kế 60.000 tấn nông sản/năm và 200.000 tấn thức ăn chăn nuôi/năm, với vốn đầu tư 190 tỷ đồng. Trong đó, vốn góp thực hiện dự án 43,9 tỷ đồng, chiếm 23,1% tổng vốn đầu tư.
Dự án được thực hiện tại Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh - giai đoạn 1, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang theo hình thức Nhà nước cho thuê đất để thực hiện dự án.
Thời hạn hoạt động của dự án là 50 năm kể từ ngày nhà đầu tư được quyết định cho thuê đất.
Về tiến độ thực hiện, dự án triển khai xây dựng ngay sau khi nhận mặt bằng sạch, thời gian xây dựng khoảng 24 tháng, cụ thể:
Giai đoạn 1, xây dựng hoàn thành nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi từ quý I/2023 đến quý I/2024.
Giai đoạn 2, xây dựng hoàn thành nhà máy chế biến nông sản từ quý I/2024 đến quý IV/2024.
UBND tỉnh Hậu Giang giao Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hậu Giang phối hợp các sở ngành, đơn vị liên quan hướng dẫn nhà đầu tư thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định về đầu tư, xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường và các quy định khác có liên quan.
Hải Dương thông qua chủ trương đầu tư xây cầu Kênh Vàng và đường dẫn nối với Bắc Ninh
HĐND tỉnh Hải Dương đã thông qua chủ trương đầu tư xây dựng cầu Kênh Vàng và đường dẫn hai đầu cầu, kết nối với Bắc Ninh. Tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng 180 tỷ đồng.
Phối cảnh cầu Kênh Vàng. Ảnh: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Theo đó, tại Kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh Hải Dương khóa XVII (kỳ họp chuyên đề) đã thông qua Nghị quyết về việc chấp thuận tham gia đầu tư xây dựng cầu Kênh Vàng và đường dẫn hai đầu cầu, kết nối hai tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương với kinh phí dự kiến khoảng 180 tỷ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh.
Trong đó, tỉnh Hải Dương thực hiện giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ, tái định cư của Dự án thuộc địa phận tỉnh Hải Dương và kinh phí thực hiện từ nguồn ngân sách của tỉnh Hải Dương.
Theo tờ trình, tỉnh Hải Dương thực hiện giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án thuộc địa phận tỉnh Hải Dương với kinh phí dự kiến khoảng 180 tỷ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh.
HĐND tỉnh Bắc Ninh đã có Nghị quyết số 366/NQ-HĐND phê duyệt chủ trương đầu tư dự án, UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng cầu Kênh Vàng và đường dẫn hai đầu cầu. HĐND, UBND tỉnh Hải Dương căn cứ để cân đối, bố trí vốn thực hiện trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và kế hoạch đầu tư công hằng năm của tỉnh Hải Dương.
UBND tỉnh Hải Dương giao Sở Giao thông - Vận tải là cơ quan đầu mối trong quá trình thực hiện dự án, làm việc và thống nhất với cơ quan đầu mối của tỉnh Bắc Ninh về tiến độ triển khai thực hiện dự án. Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Sở tài chính tham mưu HĐND, UBND tỉnh cân đối, bố trí vốn trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và kế hoạch đầu tư công hằng năm của tỉnh.
Giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì rà soát, đưa diện tích đất phải thu hồi thuộc địa phận tỉnh Hải Dương vào Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2030, Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2025, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện làm cơ sở thu hồi và giao đất thực hiện dự án; tham mưu UBND tỉnh thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa để thực hiện dự án.
Với dự án này, UBND huyện Nam Sách có trách nhiệm rà soát, đưa diện tích đất phải thu hồi vào Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2030, Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2025, kế hoạch sử dụng đất hằng năm. Đồng thời, UBND huyện Nam Sách tổ chức lập phương án giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ, tái định cư của dự án thuộc địa phận tỉnh Hải Dương để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức bồi thường giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư dự án.
Ông Phạm Xuân Thăng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Hải Dương đã khẳng định: Đây là một Dự án lớn, trọng điểm phục vụ dân sinh được hai tỉnh Bắc Ninh - Hải Dương thống nhất triển khai thực hiện, do vậy cần phải có sự thông tin, phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt, thông suốt. Đề nghị UBND tỉnh quyết liệt điều hành tổ chức thực hiện.
Đồng thời, yêu cầu bố trí cân đối vốn thực hiện giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ, tái định cư trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và kế hoạch đầu tư công hàng năm của tỉnh Hải Dương đảm bảo đúng tiến độ thực hiện chung. Rà soát, đưa diện tích đất thu hồi vào kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2025, hoàn thiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa theo đúng quy định.
Hải Dương: Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt 38,1% kế hoạch năm 2022
Theo UBND tỉnh Hải Dương, đến ngày 31/7/2022, tỉnh đã giải ngân vốn đầu tư công gần 2.278 tỷ đồng, đạt 38,1% kế hoạch vốn thanh toán cả năm.
Thông tin trên từ báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công năm 2022 và dự kiến kế hoạch năm 2023 được UBND tỉnh Hải Dương trình Kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh khóa XVII (kỳ họp chuyên đề).
Cụ thể, tổng kế hoạch vốn thanh toán năm 2022 là gần 5.979 tỷ đồng, bao gồm vốn trong nước là gần 5.526 tỷ đồng, vốn nước ngoài là gần 453 tỷ đồng. Đến ngày 31/7, tỉnh đã giải ngân gần 2.278 tỷ đồng, đạt 38,1% kế hoạch vốn thanh toán cả năm. Nếu loại trừ vốn tăng thu ngân sách năm 2021 (hơn 281,6 tỷ đồng) và vốn ngân sách Trung ương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới mới giao bổ sung, tỷ lệ giải ngân đến ngày 31/7 đạt 40,8% kế hoạch.
Theo UBND tỉnh Hải Dương, dịch Covid-19 bùng phát trên địa bàn tỉnh những tháng đầu năm 2022 khiến việc hoàn thiện các thủ tục, lựa chọn nhà thầu và tiến độ đầu tư Dự ánrất chậm, trực tiếp ảnh hưởng đến giải ngân vốn đầu tư.
Nhiều chủ đầu tư trì trệ, chưa tích cực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch đầu tư công. Một số dự án chuyển tiếp và khởi công mới chậm hoàn thiện thủ tục về đầu tư, lập thiết kế kỹ thuật, dự toán, trình thẩm định, phê duyệt để tổ chức lựa chọn nhà thầu xây dựng. Giá cả vật liệu tăng cao gây khó khăn cho nhà thầu xây dựng. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn vướng mắc, làm chậm tiến độ thực hiện. Đây là những khó khăn, áp lực trong thời gian cuối năm 2022 và những năm tiếp theo.
Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, phấn đấu năm 2022 giải ngân hết 100% kế hoạch vốn đầu tư công được giao, ông Phạm Xuân Thăng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Hải Dương đề nghị UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo quyết liệt, tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công năm 2022, bảo đảm tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; phấn đấu đến ngày 30/9 giải ngân từ 70% trở lên đối với các dự án chuyển tiếp và 60% trở lên đối với dự án khởi công mới; bảo đảm giải ngân hết 100% kế hoạch vốn trong năm 2022; tập trung triển khai thực hiện những nghị quyết đã được HĐND tỉnh thông qua.
UBND tỉnh Hải Dương yêu cầu các sở, ngành, đơn vị, địa phương, chủ đầu tư phải xác định đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Thực hiện nghiêm các văn bản chỉ đạo của Trung ương và tỉnh về đẩy mạnh thực hiện giải ngân vốn đầu tư công năm 2022. Tăng cường hướng dẫn, đôn đốc các chủ đầu tư hoàn thiện các thủ tục đầu tư, lựa chọn nhà thầu và thực hiện dự án theo tiến độ đầu tư đã được phê duyệt, bảo đảm yêu cầu về chất lượng công trình.
Đồng thời, yêu cầu các chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án tiếp tục rà soát, lập tiến độ thực hiện, kế hoạch giải ngân và cam kết giải ngân vốn năm 2022 theo kế hoạch đã lập của từng dự án (bao gồm cả đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch vốn nếu dự kiến năm 2022 không có khả năng giải ngân hết kế hoạch vốn giao). Gửi bản đăng ký tiến độ thực hiện, kế hoạch giải ngân và cam kết giải ngân về cơ quan kế hoạch và đầu tư, tài chính, kho bạc nhà nước để theo dõi thực hiện. Kết quả giải ngân của từng dự án là căn cứ chủ yếu để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ năm 2022.
Trường hợp không hoàn thành giải ngân theo kế hoạch lập (trừ lý do khách quan, bất khả kháng), kiểm điểm trách nhiệm tập thể, người đứng đầu, cá nhân có liên quan; không xét thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ cho người đứng đầu, chủ đầu tư dự án và các cá nhân có liên quan nếu năm 2022 giải ngân không đạt 100% kế hoạch vốn thanh toán...
Tháng 6/2023, Đồng Nai khởi công cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu
Ông Nguyễn Bôn, Phó Giám đốc Sở GTVT tỉnh Đồng Nai cho biết, tỉnh vừa có quyết định thành lập Ban chỉ đạo, thực hiện triển khai Dự án xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đoạn đi qua địa bàn tỉnh.
Ông Bôn cho biết, sau khi thành lập Ban chỉ đạo, tỉnh Đồng Nai đã lên kế hoạch dự kiến khởi công Dự án đường cao tốc Biên Hòa- Vũng Tàu vào cuối tháng 6/2023. Hiện tại các địa phương đang khẩn trương làm các thủ tục để giải phóng mặt bằng với kế hoạch bàn giao được 70% mặt bằng vào tháng 6/2023, phần mặt bằng còn lại sẽ được bàn giao vào cuối năm 2023.
Để phục vụ việc giải phóng mặt bằng Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1, tỉnh Đồng Nai đang khẩn trương chuẩn bị 2 khu tái định cư ở huyện Long Thành và ở Thành phố Biên Hòa để bố trí cho người dân bị giải tỏa.
Trước đó, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thông qua kế hoạch khởi công Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn I vào ngày 30/4/2023.
Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu có chiều dài toàn tuyến là 53,7 km đi qua Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Dự án đã được chia thành 3 dự án thành phần, trong đó, dự án thành phần 1 dài 16 km (Đồng Nai đầu tư), dự án thành phần 2 dài 18,2 km đi qua địa phận tỉnh Đồng Nai (Bộ GTVT đầu tư), dự án thành phần 3 đi qua địa phận Bà Rịa - Vũng Tàu dài 19,5 km (Bà Rịa - Vũng Tàu đầu tư).
Dự án có tổng mức đầu tư 17.837 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 là 14.270 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2026 - 2030 là 3.567 tỷ đồng.
Khu công nghiệp Việt Nam là bến đỗ ưa thích của nhà đầu tư ngoại
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để thu hút một làn sóng đầu tư mới từ các doanh nghiệp nước ngoài, nhất là đầu tư vào các khu kinh tế, khu công nghiệp.
Đây là ý kiến được các nhà quản lý, chuyên gia đưa ra tại Diễn đàn Khu công nghiệp Việt Nam 2022 chủ đề “Khơi thông làn sóng đầu tư mới”, do Tạp chí Nhà Đầu tư tổ chức.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 7 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã thu hút hơn 15,54 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới; vốn giải ngân đạt trên 11,57 tỷ USD tăng 10,2% so với cùng kỳ năm ngoái và là mức cao nhất của 7 tháng trong 5 năm qua.
Trong đó, các khu kinh tế, khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Hiện cả nước có 564 khu công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích 211.700 ha, trong đó có 292 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động.
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết các khu công nghiệp, khu kinh tế đã thu hút được hơn 10.000 Dự án trong nước và gần 11.000 dự án FDI còn hiệu lực. Riêng tổng vốn đầu tư FDI là khoảng 230 tỷ USD.
Những năm gần đây, trung bình hằng năm, vốn FDI trong khu công nghiệp, khu kinh tế chiếm khoảng 35% - 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước. “Nếu tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo thì vốn đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp, khu kinh tế chiếm 70 - 80% tổng vốn đăng ký cả nước”, Thứ trưởng Phương thông tin.
Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, khu công nghiệp, khu kinh tế đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, hiện là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu như Samsung, Canon, LG, Sumitomo, Foxconn, VSIP… Nhiều doanh nghiệp trong nước với khởi đầu là nhà đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp đã phát triển thành tập đoàn đầu tư đa ngành, góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá), vốn giải ngân FDI trong 7 tháng qua vẫn tăng so với cùng kỳ phản ánh nhu cầu tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động của các dự án hiện hữu vẫn tiếp tục tăng bất chấp tác động của dịch bệnh. Nhiều doanh nghiệp FDI đang phục hồi và dần mở rộng dự án, hoạt động sản xuất, kinh doanh.
“Việt Nam tiếp tục được cộng đồng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đánh giá là điểm đến đầu tư hấp dẫn với lợi thế chính trị ổn định, thủ tục hành chính dần thông thoáng. Một số tập đoàn lớn đã thực hiện quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng sản xuất sang Việt Nam như Apple, Dell, Foxconn, Pegatron…”, ông Nguyễn Anh Tuấn nói.
Bên cạnh cơ hội, thu hút đầu tư vào khu công nghiệp hiện nay đối diện những thách thức, bao gồm: Thủ tục hành chính còn rườm rà, chồng chéo, thời gian thực hiện quá dài tăng thêm chi phí và thời gian, làm giảm hiệu quả dự án đầu tư; việc giải phóng mặt bằng cho các khu công nghiệp mới thành lập còn nhiều vướng mắc, kéo dài; các vấn đề về thực thi pháp luật, nhất là chính sách ưu đãi đầu tư, hoàn thuế với doanh nghiệp chế xuất; vấn đề thiếu hụt nguồn cung lao động chất lượng cao cho các khu công nghiệp, vấn đề nhà ở, phúc lợi xã hội cho công nhân làm việc trong các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Bà Hương Vũ, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam, chuyên gia có hơn 30 năm kinh nghiệm tư vấn thuế và pháp lý tại Việt Nam, phân tích theo quan sát của bà tại nhiều hội nghị về xúc tiến đầu tư, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính luôn nhấn mạnh phải đổi mới tư duy và hành động để xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng, công khai, minh bạch, bình đẳng, công bằng, đồng hành thực chất, hiệu quả với doanh nghiệp để giải quyết các khó khăn và hỗ trợ đúng quy định của pháp luật.
Theo bà, nếu hiểu rằng việc “làm tổ đón đại bàng” là việc cải thiện môi trường đầu kinh doanh, tạo thuận lợi nhất cho nhà đầu tư thì các khu công nghiệp chính là những bến đỗ, những chiếc “tổ” hữu hình đối với mỗi nhà đầu tư. Chính vì vậy, muốn khai thông dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua những mắt xích quan trọng này, và nhất thiết phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế.
Do đó, để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ cũng như các cơ quan chính quyền địa phương cần hỗ trợ các chủ đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Mối quan hệ ba bên Nhà đầu tư - Chủ đầu tư khu công nghiệp - Chính phủ mang tính tương hỗ mật thiết và cần được quan tâm thường xuyên để duy trì sức hấp dẫn, cạnh tranh của môi trường đầu tư tại địa bàn các khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, hoạt động của các khu công nghiệp, khu kinh tế liên quan đến nhiều luật như Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thuế, và nhiều luật khác. “Vì vậy, Chính phủ nên xem xét và có sự tích hợp đồng bộ giữa các luật để hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bao gồm cả các chính sách về thuế để tháo gỡ các vướng mắc cho cả chủ đầu tư khu công nghiệp và bản thân các doanh nghiệp đầu tư trong đó”, bà Hương Vũ nói.
Trong khi đó, ông Nguyễn Công Ái, Phó tổng giám đốc KPMG nhận định dù kinh tế khó khăn nhưng mối quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường Việt Nam vẫn tốt và thậm chí có phần tăng lên. Nhưng nếu gọi đây là cơ hội vàng thì ông vẫn có sự cẩn trọng.
“Khi kinh tế đi vào suy thoái từ năm 2023 tại Mỹ, EU sẽ ảnh hưởng đến làn sóng đầu tư. Chưa kể giờ cạnh tranh thu hút vốn FDI không chỉ giữa các nước đang phát triển mà phải cạnh tranh với Mỹ, EU khi các nước này chủ trương thu hút vốn FDI về thị trường nội địa”, ông Ái nói và cho rằng Việt Nam là điểm đến hấp dẫn nhất đối với các nước Bắc Á và Đông Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Do đó, trong giai đoạn này, ông Ái cho rằng nên tập trung chất lượng đầu tư, thân thiện môi trường, đầu tư công nghệ cao và không nhất thiết là nhà đầu tư rất lớn mà có thể là nhà đầu tư châu Á.
Tương tự, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài Nguyễn Anh Tuấn cũng nhấn mạnh không nên chỉ nhìn màu hồng cơ hội thu hút đầu tư. “Cái gì cũng có mặt trái của nó. Chúng ta cũng cùng chia sẻ cùng cạnh tranh thu hút đầu tư của các nước phát triển, đó là quy định sớm muộn. Bởi lẽ, các nước phát triển muốn thu hút đầu tư vì muốn giảm thiểu rủi ro do quá bị động phụ thuộc vào các thị trường bất ổn”.
Ông Tuấn cho rằng việc tăng cường thu hút từ các nước phát triển là đúng, nhưng cần đảm bảo để các nước phát triển tránh cảm giác thiệt thòi khi hợp tác với chúng ta. Một trong các điểm nhấn là phát triển công nghiệp phụ trợ, phải tạo ra hệ sinh thái để các nhà đầu tư vào Việt Nam không quan tâm việc gì khác, chỉ tập trung đầu tư. Việt Nam như một “resort” đủ tiện nghi, tiện ích cho nhà đầu tư. “Như vậy, dù giá có cao, họ vẫn chấp nhận ở lại Việt Nam”.
Vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP tháng 5/2022 quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, trong đó đã bổ sung các loại hình khu công nghiệp, khu kinh tế mới, bỏ thủ tục thành lập khu công nghiệp để giảm bớt thủ tục hành chính và bổ sung, sửa đổi một số quy định để nâng cao hiệu quả sử dung đất trong phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Phương cho hay Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ cùng các Bộ, ngành và các địa phương tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách và đồng hành cùng với nhà đầu tư để xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh của khu công nghiệp, khu kinh tế ngày càng minh bạch, thuận lợi.
Phê duyệt Dự án nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải trị giá 1.414 tỷ đồng
Bộ trưởng Bộ GTVT vừa ký Quyết định phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải từ phao số “0” vào khu bến cảng container Cái Mép.
Một bến phao trên luồng Cái Mép - Thị Vải. Ảnh: Cảng vụ hàng hải Vũng Tàu.
Dự án có mục tiêu hình thành và phát triển cảng đầu mối cửa ngõ quốc tế, thu hút hàng hóa trung chuyển trong khu vực.
Trong đó, đoạn luồng từ phao số “0” đến thượng lưu bến cảng container quốc tế Cái Mép (CMIT) cho tàu 160.000 DWT đủ tải (cho phép tránh nhau với tàu đến 50.000 DWT), tàu 120.000 DWT khai thác hai chiều và tàu 200.000 DWT/18.000 TEU giảm tải hoặc lớn hơn (đáp ứng điều kiện an toàn hàng hải) khai thác một chiều.
Đoạn luồng từ thượng lưu bến cảng container quốc tế Cái Mép (CMIT) đến thượng lưu bến cảng container Tân cảng Cái Mép (TCIT và TCCT) cho tàu 120.000 DWT đủ tải (cho phép tránh nhau với tàu đến 60.000 DWT), tàu 100.000 DWT khai thác hai chiều và tàu 160.000 DWT giảm tải hoặc lớn hơn khai thác một chiều.
Đoạn luồng từ thượng lưu bến cảng container Tân cảng Cái Mép (TCIT và TCCT) đến bến cảng khởi động Phước An cho tàu 60.000 DWT đầy tải hoặc lớn hơn khai thác một chiều.
Tổng mức đầu tư Dự án là 1.414 tỷ đồng từ nguồn Ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025. Dự kiến kế hoạch vốn bố trí theo tiến độ thực hiện Dự án, trong đó năm 2022 khoảng 274 tỷ đồng; năm 2023 khoảng 494 tỷ đồng; năm 2024 khoảng 395 tỷ đồng; năm 2025 khoảng 79,3 tỷ đồng và khoảng 171,7 tỷ đồng (cho chi phi dự phòng).
Dự án khi hoàn thành vào năm 2025 sẽ tạo động lực thúc đẩy tiến trình đầu tư các dự án trong khu vực, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tăng cường năng lực vận tải thủy của toàn tuyến luồng ra vào khu vực cảng Cái Mép - Thị Vải, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trong khu vực, đảm bảo an toàn cho các tàu hành thủy, tăng nguồn thu vào ngân sách Nhà nước: nư thuế xuất nhập khẩu, dịch vụ hàng hải, dịch vụ vận tải biển và các hoạt động khai thác cảng biển, bù đắp chi phí cho công tác nạo vét duy tu hằng năm.
Phú Yên: 7 dự án đầu tư công gặp khó khăn về mặt bằng
UBND tỉnh Phú Yên vừa làm việc với Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên và các đơn vị liên quan để giải quyết các khó khăn, vướng mắc tại các khu kinh tế, khu công nghiệp và các Dự án do Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên làm chủ đầu tư.
Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Xuân Hùng, Trưởng Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên cho biết, lũy kế đến nay tại Khu kinh tế Nam Phú Yên và các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Yên đã thu hút được 117 dự án đầu tư, trong đó có 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài; với diện tích đất đăng ký hơn 449 ha; vốn đầu tư đăng ký 10.589 tỉ đồng và 35,78 triệu USD.
Ngoài ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án tại Khu kinh tế Nam Phú Yên và các khu công nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2022 với doanh thu là 4.591 tỉ đồng, đạt 63,7% kế hoạch năm; kim ngạch xuất khẩu hơn 138 triệu USD, đạt 76,8% kế hoạch.
Ông Hùng thông tin thêm, Khu kinh tế Nam Phú Yên đã có 13 đồ án được tài trợ bằng sản phẩm quy hoạch với tổng diện tích hơn 1.940 ha; trong đó có 6 đồ án khu du lịch với diện tích đất là 502 ha, 7 đồ án khu đô thị với diện tích đất hơn 1.438 ha.
Đối với các khó khăn, vướng mắc liên quan đến Khu kinh tế Nam Phú Yên và các khu công nghiệp, Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên kiến nghị UBND tỉnh Phú Yên chỉ đạo UBND thị xã Đông Hòa sớm triển khai đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu nghĩa trang tập trung thị xã Đông Hòa (giai đoạn 1, đợt 1) để di dời các nghĩa trang xen lẫn trong các khu chức năng của Khu kinh tế Nam Phú Yên.
Về các dự án đầu tư công, Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên thông tin hiện nay việc triển khai thực hiện các dự án đều gặp khó khăn trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, trong đó TP. Tuy Hòa có 4 dự án, thị xã Đông Hòa 3 dự án.
Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên kiến nghị UBND tỉnh Phú Yên chỉ đạo các địa phương tập trung giải quyết để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án, tạo nguồn thu cho ngân sách tỉnh.
Kết luận tại buổi làm việc, ông Lê Tấn Hổ, Phó chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên yêu cầu Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên phối hợp đơn vị tư vấn làm việc với Bộ Xây dựng và các bộ, ngành liên quan để thẩm định, trình Thủ tướng phê duyệt Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Nam Phú Yên đến năm 2040.
“Ban Quản lý Khu kinh tế Phú Yên cần rà soát, đề xuất lập quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết các khu chức năng thuộc Khu kinh tế Nam Phú Yên đảm bảo chất lượng, hiệu quả, tránh chồng chéo; sớm xây dựng danh mục dự án thu hút, kêu gọi, xúc tiến đầu tư trong Khu kinh tế Nam Phú Yên trình UBND tỉnh phê duyệt để làm cơ sở thu hút đầu tư”, ông Hổ yêu cầu.
Phó chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cũng yêu cầu, các đơn vị phối hợp với các địa phương tập trung giải quyết dứt điểm các tồn tại, hạn chế trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án, không để ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư theo kế hoạch; đặc biệt là các nguồn vốn Trung ương đã bố trí cho các dự án trong năm 2022.
Thành lập Ban chỉ đạo triển khai Dự án nhà ga T2, sân bay Cát Bi
UBND TP. Hải Phòng và Bộ Giao thông - Vận tải (GTVT) vừa ban hành Thông báo số 414/TB – UBND – BGTVT, thông báo kết luận của Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng và Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn tại buổi làm việc về kế hoạch triển khai Dự án xây dựng Nhà ga hành khách T2, Cảng hàng không quốc tế Cát Bi.
Theo đó, Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng và Thứ trưởng Bộ GTVT yêu cầu Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam – CTCP (ACV) khẩn trương lập tiến độ chi tiết triển khai thực hiện Dự án, báo cáo UBND TP. Hải Phòng và Bộ GTVT để đôn đốc và giám sát.
Hai cơ quan thống nhất thành lập Ban Chỉ đạo để triển khai thực hiện Dự án do ông Nguyễn Văn Tùng, Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng là Trưởng ban; ông Lê Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ GTVT là Phó Trưởng ban.
Thành viên Ban chỉ đạo gồm lãnh đạo các Cục, Vụ thuộc Bộ GTVT, lãnh đạo các sở, ngành và địa phương liên quan thuộc TP. Hải Phòng và lãnh đạo ACV.
Các bên thống nhất việc UBND TP. Hải Phòng là cơ quan ban hành quyết định thành lập Ban chỉ đạo và giao ông Vũ Duy Tùng, Giám đốc Sở GTVT Hải Phòng là đầu mối phía TP. Hải Phòng; ông Nguyễn Bách Tùng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông là đầu mối phía Bộ GTVT.
Hai đầu mối này có nhiệm vụ kiểm tra, rà soát và thống nhất tiến độ chi tiết triển khai Dự án, báo cáo UBND TP. Hải Phòng và Bộ GTVT; thống nhất đề xuất thành viên tham gia Ban chỉ đạo thực hiện Dự án, trình UBND TP. Hải Phòng xem xét, quyết định.
Lãnh đạo UBND TP. Hải Phòng giao Sở Tài nguyên và Môi trường khẩn trương nghiên cứu quy trình điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất quốc phòng để giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án (tương tự Dự án xây dựng nhà ga khách T3, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất), đề xuất, báo cáo UBND TP. Hải Phòng.
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng có trách nhiệm khẩn trương hoàn thiện thủ tục thẩm định chủ trương đầu tư Dự án mở rộng sân đỗ máy bay - Cảng hàng không quốc tế Cát Bi trình UBND TP. Hải Phòng phê duyệt, để kịp thời thực hiện công tác giải phóng mặt bằng của Dự án đồng thời với Dự án xây dựng Nhà ga hành khách T2 - Cảng hàng không quốc tế Cát Bi.
Vào đầu tháng 7/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 803/QĐ – TTg chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án xây dựng nhà ga hành khách T2 – Cảng hàng không quốc tế Cát Bi.
Dự án được giao cho ACV là nhà đầu tư có mục tiêu xây dựng nhà ga hành khách T2 đáp ứng công suất 5 triệu hành khách/năm và các hạng mục phụ trợ đồng bộ.
Tổng mức đầu tư Dự án là 2.405,4 tỷ đồng, bằng nguồn vốn góp của ACV, không sử dụng vốn vay; thời gian thực hiện là 50 năm. Tiến độ thực hiện Dự án là 18 tháng kể từ khi hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, công tác giao đất và bàn giao đầy đủ mặt bằng để thi công.
Tổng nhu cầu sử dụng đất tại Dự án là 18,43 ha (trong đó đất quốc phòng cần giải phóng mặt bằng là 12,82 ha, đất hiện trạng Cảng hàng không quốc tế Cát Bi đang khai thác, sử dụng, không phải giải phóng mặt bằng là 5,61 ha).
Thủ tướng giao UBND TP. Hải Phòng chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ các thủ tục giải phóng mặt bằng Dự án đáp ứng tiến độ triển khai các hạng mục Dự án, đảm bảo hiệu quả việc sử dụng đất sau khi thực hiện giải phóng mặt bằng, tránh việc lãng phí tài nguyên; kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Dự án của ACV theo đúng quy định của pháp luật, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến của các bộ, ngành liên quan, bao gồm: kiểm tra, giám sát việc huy động vốn của ACV theo tiến độ thực hiện Dự án.
Quy hoạch Đà Nẵng phát huy vai trò trung tâm kết nối, liên kết vùng
Ngày 12/8, Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng cho hay, các bộ, ngành vừa có cuộc góp ý về Quy hoạch TP. Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây là cơ sở giúp TP. Đà Nẵng hoàn thiện dự thảo quy hoạch trước khi trình cấp có thẩm quyền theo quy định, lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng cho hay.
Theo lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng, Hội thảo tham gia ý kiến đối với Quy hoạch TP. Đà Nẵng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, nhiều chuyên gia cho rằng, Quy hoạch phải làm rõ nét sự kết nối giữa Đà Nẵng với các địa phương lân cận để phát huy vai trò trung tâm phát triển của vùng và khu vực.
Quy hoạch TP. Đà Nẵng được xây dựng với quan điểm cụ thể hóa Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và định hướng chiến lược phát triển đất nước thời kỳ 2021-2030; cụ thể hóa quy hoạch tổng thể quốc gia, các quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trên địa bàn TP. Đà Nẵng.
Theo dự thảo Quy hoạch TP. Đà Nẵng đến năm 2030, bên cạnh những tiềm năng, lợi thế Đà Nẵng còn các điểm yếu như chưa phát huy hết các cơ hội và thể hiện vai trò dẫn dắt là trung tâm của cả vùng dẫn đến quy mô kinh tế còn khiêm tốn; quy mô kinh tế đóng góp chung trong cả nước có dấu hiệu giảm sút.
Không còn nhiều dư địa lãnh thổ để phát triển nâng quy mô nền kinh tế theo cách tiếp cận dàn trải hiện nay. Hạ tầng cơ sở vẫn thiếu tính hiện đại, thiếu tính kết nối. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Cơ cấu kinh tế vẫn còn bất cập. Đóng góp của khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế…
Thành phố đưa ra 3 trụ cột cần tập trung phát triển trong thời gian tới. Đó là du lịch gắn với bất động sản nghỉ dưỡng và trung tâm tổ chức sự kiện quốc tế; kinh tế tri thức (gồm 2 mũi nhọn: công nghiệp công nghệ cao gắn với xây dựng đô thị sáng tạo, khởi nghiệp; công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông gắn với nền kinh tế số); trung tâm dịch vụ chất lượng cao (với 2 mũi nhọn là cảng biển, cảng hàng không gắn với dịch vụ logistics và trung tâm tài chính quốc tế quy mô khu vực).
Bản quy hoạch cũng thể hiện rõ mục tiêu xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Theo đó, Đà Nẵng đặt mục tiêu trở thành trung tâm du lịch và dịch vụ chất lượng cao, với vai trò là điểm đến quan trọng, gắn với việc đẩy mạnh kết nối không gian du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Tây Nguyên… Phát triển Đà Nẵng trở thành trung tâm logistics, trong đó ga hàng hóa đường sắt, cảng Liên Chiểu và cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng là cửa ngõ giao nhận, vận chuyển với các địa phương, quốc gia trên hành lang kinh tế Đông - Tây, khu vực ASEAN và quốc tế.
Quy hoạch Đà Nẵng cũng định hướng các trục hành lang động lực để phát triển không gian kinh tế và liên kết vùng nhờ các hàng lang ven biển (tuyến đường Nguyễn Tất Thành - Lê Đức Thọ - Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa kết nối với thị trấn Lăng Cô (Thừa Thiên Huế) và TP. Hội An (Quảng Nam); hành lang cao tốc (La Sơn - Túy Loan, Đà Nẵng - Quảng Ngãi); hàng lang Quốc lộ 14B và Quốc lộ 14 G nối Đà Nẵng với Quảng Nam và Kon Tum; hàng lang kinh tế Đông - Tây qua Quốc lộ 1 nối cảng Tiên Sa với Thừa Thiên Huế, Quảng Trị đến cửa khẩu Lao Bảo…
Tham gia ý kiến, các đại biểu đã đưa ra những phân tích, đánh giá cụ thể, khách quan để giúp thành phố Đà Nẵng hoàn thiện dự thảo quy hoạch với quan điểm đảm bảo phát huy được vai trò, vị thế và tiềm năng của thành phố Đà Nẵng là cửa ngõ giao thương quốc tế, là trung tâm kinh tế hàng đầu của quốc gia và khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Đảm bảo phát triển hài hòa giữa các địa phương, vùng lãnh thổ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; phù hợp với khả năng cân đối, huy động các nguồn lực triển khai thực hiện; Đánh giá vị trí địa kinh tế - chính trị của thành phố Đà Nẵng; các tác động về điều kiện và bối cảnh từ bên ngoài đến phát triển của thành phố Đà Nẵng; các cơ hội liên kết giữa thành phố Đà Nẵng với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm và cả nước; hành lang Đông - Tây; khả năng khai thác các cơ hội phát triển trong thời đại mới.
Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Đà Nẵng, bà Trần Thị Thanh Tâm cho biết, Thành phố cầu thị, tiếp thu ý kiến góp ý để tiếp tục hoàn thiện dự thảo quy hoạch; đồng thời khẳng định sẽ nghiên cứu, tiếp thu bổ sung, hoàn thiện dự thảo với chất lượng cao nhất để trình các cấp có thẩm quyền theo quy định.
Đại biểu các bộ, ngành Trung ương đã góp ý đưa ra những phân tích, đánh giá cụ thể, phát triển hài hòa giữa các địa phương, vùng lãnh thổ trên địa bàn Đà Nẵng; phù hợp với khả năng cân đối, huy động các nguồn lực triển khai thực hiện; đánh giá vị trí địa kinh tế - chính trị của TP Đà Nẵng; các tác động về điều kiện và bối cảnh từ bên ngoài đến phát triển của Đà Nẵng...
Các cơ hội liên kết giữa thành phố Đà Nẵng với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm và cả nước; hành lang kinh tế Đông - Tây; khả năng khai thác các cơ hội phát triển trong thời đại mới.
Các đại biểu chỉ ra những thách thức của Thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là về năng lực cạnh tranh, sự gắn kết trong chuỗi giá trị; chất lượng nguồn nhân lực; vấn đề liên kết vùng Đà Nẵng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng; thiếu cơ chế phối hợp phát triển kinh tế hiệu quả trong liên kết giữa các địa phương, chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp...
TP.HCM không xóa sổ bất kỳ KCN nào mà chuyển đổi cho phù hợp
TP.HCM không có chủ trương bỏ hay xóa sổ khu công nghiệp, khu chế xuất nào, mà sẽ định hướng chuyển đổi cho phù hợp
Đây là khẳng định của ông Võ Văn Hoan, Phó chủ tịch UBND TP.HCM tại hội nghị lấy ý kiến về Đề án Định hướng phát triển các khu chế xuất - khu công nghiệp (KCX-KCN) TP.HCM giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2040 diễn ra ngày 11/8.
Theo báo cáo của Ban Quản lý các KCX-KCN TPHCM (Hepza), đến nay, TP.HCM đã có 19 KCX-KCN được thành lập, trong đó 17 KCX-KCN đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy khoảng 80%. Từ khi triển khai đến nay, các KCX-KCN của thành phố đã thu hút được 1.665 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 12,5 tỷ USD.
Ông Hứa Quốc Hưng, Trưởng Ban Quản lý các KCX-KCN TPHCM (Hepza) cho biết, nhiều KCX, KCN như Tân Thuận, Linh Trung 1 và 2, KCN Bình Chiểu, Tân Thới Hiệp, Vĩnh Lộc, Tân Bình, Tân Tạo, Tây Bắc Củ Chi, Hiệp Phước, giai đoạn 1 đã hoạt động được hơn một nửa thời hạn của dự án.
Sau nhiều năm hoạt động, một số khu công nghiệp đã bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đảm bảo phát triển bền vững về mặt kinh tế và môi trường. Một số khu công nghiệp có nhiều ngành nghề thâm dụng lao động cao, giá trị thu hút trung bình trên 1 ha đất còn thấp.
Chính vì vậy, Hepza được giao xây dựng Đề án Định hướng phát triển các KCX-KCN TP.HCM giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến năm 2040 để tái cấu trúc lại theo tình hình thực tế, theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Góp ý cho đề án, ông Nguyễn Chơn Trung, nguyên Trưởng ban Quản lý Hepza, đề xuất quy hoạch sắp tới phải có trọng tâm trọng điểm. Để khắc phục những khó khăn hiện nay, cần áp dụng mô hình trước đây, có cơ chế một cửa tại chỗ, được tự chủ tài chính. Việc quy hoạch KCX-KCN phải đồng bộ trên cơ sở kế thừa, xem xét lại mặt được và chưa được.
Theo báo cáo của Hepza, nhiều doanh nghiệp tại các KCX-KCN của TP.HCM đã hoạt động được một nửa chu kỳ dự án, đang lưỡng lự trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới máy móc thiết bị do thời gian còn lại ngắn, thậm chí một số khu công nghiệp thời gia hoạt động còn lại chưa tới 20 năm.
Đối với Ban Quản lý và các công ty xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng KCX-KCN cũng gặp khó khăn trong thu hút đầu tư những dự án mới do thời gian còn lại của dự án quá ngắn, khó thu hồi vốn cho dự án đầu tư sản xuất.
Do vậy, phần lớn đại diện hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp đầu tư khu công nghiệp đều kiến nghị UBND TPHCM giữ lại các KCX-KCN, đặc biệt là KCX Tân Thuận. Doanh nghiệp cũng kiến nghị trong đề án phải có thời hạn rõ ràng để doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất.
Trước lo lắng của doanh nghiệp, ông Võ Văn Hoan, Phó chủ tịch UBND TP.HCM khẳng định, Thành phố không có chủ trương bỏ hay xóa sổ KCX-KCN nào, mà sẽ định hướng chuyển đổi cho phù hợp với thực tế.
Để thu hút các nhà đầu tư trong những năm tới, đầu năm 2022, UBND TP.HCM đã có kiến nghị Chính phủ cho phép bổ sung khu công nghiệp Phạm Văn Hai (huyện Bình Chánh) với quy mô 668 ha để thay thế 3 khu công nghiệp khác bị loại khỏi quy hoạch là khu công nghiệp Phước Hiệp, Bàu Đưng và Xuân Thới Thượng.
UBND TP.HCM định hướng khu công nghiệp Phạm Văn Hai sẽ là khu công nghiệp mới thu hút doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Đề xuất đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lai Châu theo hình thức PPP
UBND tỉnh Lai Châu vừa có tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ về việc xin đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lai Châu theo hình thức PPP và giao cho tỉnh này làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền để triển khai thực hiện Dự án.
Theo UBND tỉnh Lai Châu, cảng hàng không Lai Châu đã được Thủ tướng xác định trong Quy hoạch phát triển GTVT hàng không tại Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 23/02/2018.
Cụ thể, cảng hàng không Lai Châu được định hướng đến giai đoạn 2030 là sân bay dân dụng cấp 3C và sân bay quân sự cấp III; công suất 0,5 triệu hành khách /năm; diện tích sử dụng đất là 167 ha, với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 8.000 tỷ đồng, địa điểm đầu tư tại thị trấn Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
Tại Tờ trình số 13833/TTr-BGTVT ngày 24/12/2021 của Bộ GTVT về việc phê duyệt điều chỉnh tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được Thủ tướng Chính phủ xem xét, trong giai đoạn 2030, cảng hàng không Lai Châu tiếp tục định hướng đầu tư với công suất thiết kế dự kiến 0,5 triệu hành2 khách/năm, diện tích đất dự kiến 117,09ha, ước chi phí đầu tư theo quy hoạch khoảng 4.350 tỷ đồng, địa điểm đầu tư tại thị trấn Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
UBND tỉnh Lai Châu nhấn mạnh, Dự án Cảng hàng không Lai Châu được xác định là dự án động lực quan trọng, có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu; góp phần đảm bảo quốc phòng an ninh trong công tác tuần tra, kiểm soát các vùng biên giới; phục vụ công tác cứu hộ, cứu nạn; đồng thời là Dự án động lực quan trọng của tỉnh Lai Châu cần đầu tư giai đoạn 2021-2025, nhằm tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu. Tỉnh Lai Châu đã nhiều lần đề xuất với các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và được ghi nhận.
Hiện nay, tỉnh Lai Châu cũng đã chủ động ưu tiên nguồn lực địa phương thực hiện công tác quy hoạch sử dụng đất và giải phóng mặt bằng để thu hút các nhà đầu tư quan tâm đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lai Châu.
Theo UBND tỉnh Lai Châu, hiện nay có một số nhà đầu tư đang quan tâm nghiên cứu đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lai Châu theo hình thức PPP.
Vì vậy, để đảm bảo cơ sở pháp lý và thuận lợi trong quá trình thực hiện công tác cắm mốc quy hoạch sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, triển khai thực hiện Dự án; tận dụng nguồn lực sẵn có của địa phương như quỹ đất sạch, hạ tầng kết nối... và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sớm hoàn thiện thủ tục đầu tư, UBND tỉnh Lai Châu đề nghị Thủ tướng xem xét, chấp thuận chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lai Châu theo hình thức PPP.
UBND tỉnh Lai Châu xin làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền để triển khai thực hiện Dự án và cam kết triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo chất lượng và tiến độ.
VAMA mong Chính phủ thu hút nhà cung cấp chip bán dẫn vào đầu tư
Mặc dù tình hình sản xuất kinh doanh trong 7 tháng đầu năm của ngành ô tô có nhiều khởi sắc so với cùng kỳ năm ngoái, tuy nhiên, Hiệp hội Các nhà sản xuất Ô tô Việt Nam (VAMA) cũng dự báo trong thời gian tới, ngành vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức trong việc duy trì sự tăng trưởng.
Để có thể phát triển ổn định và bền vững VAMA cũng kiến nghị 3 vấn đề trong ngắn hạn, 2022-2023.
Cụ thể, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp (chiến tranh, xung đột bạo lực cục bộ và chính sách Zero Covid) ảnh hưởng lớn tới nhiều ngành sản xuất sử dụng chip bán dẫn nhập khẩu, trong đó có ngành ô tô, sản phẩm điện tử, điện lạnh và các sản phẩm khác.
Việc thiếu chip bán dẫn ảnh hưởng đến nguồn cung sản phẩm ô tô bán ra trong nước, doanh số bán hàng và doanh thu của các hãng xe. Vì vậy, VAMA kiến nghị Chính phủ xem xét những biện pháp chính sách thu hút nhà cung cấp chip bán dẫn đầu tư sản xuất tại Việt Nam.
Liên quan đến lĩnh vực thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan, VAMA hiện đã đóng góp ý kiến về dự thảo Nghị định thay thế 04 Nghị định gồm số 122/125/57/101, VAMA xin kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định thay thế để các doanh nghiệp yên tâm, chủ động lên kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Liên quan đến quy định nhà sản xuất/nhà nhập khẩu phải thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì theo tỷ lệ bắt buộc trong đó có sản phẩm phương tiện giao thông được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định Quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (Nghị định 08/2022/NĐ-CP).
Theo VAMA, phương tiện giao thông là tài sản được Nhà nước chứng nhận quyền sở hữu thông qua hệ thống đăng ký xe. Nhà sản xuất không có thẩm quyền thu hồi sản phẩm từ người tiêu dùng.
Như vậy, hệ thống quy định hiện tại thiếu đồng bộ khi chưa có các quy định ràng buộc trách nhiệm của người tiêu dùng trong việc thải bỏ phương tiện đúng cách. Do đó, VAMA kiến nghị Bộ Tài nguyên Môi trường và các Bộ ban ngành liên quan sớm nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định việc thải bỏ phương tiện giao thông như được đề cập trong Khoản 4, Điều 77, Nghị định 08/2022/NĐ-CP
Ngoài ra Chính phủ cũng cần sớm ban hành “Định mức chi phí tái chế (Fs)” theo quy định tại Khoản 2, Điều 81, Nghị định 08/2022/NĐ-CP để doanh nghiệp có đầy đủ thông tin nhằm lựa chọn hình thức thực hiện trách nhiệm tái chế phù hợp.